1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý
2. Dàn bài chi tiết
2.1. Mở bài
Giới thiệu đoạn trích “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm.
2.2. Thân bài
– Vẻ đẹp của hình tượng đất nước được Nguyễn Khoa Điềm miêu tả, cảm nhận từ nhiều phương diện:
+ Phương diện lịch sử: Đất nước đã có từ rất lâu đời.
+ Phương diện văn hóa: Các phong tục tập quán của người Việt Nam như tục ăn trầu, búi tóc sau đầu, lối sống tình nghĩa, thủy chung.
+ Phương diện thời gian
· Thời gian quá khứ: Gắn với những truyền thuyết, thần thoại
· Thời gian hiện tại: Là sự gắn kết của mỗi cá nhân
+ Phương diện không gian: Không gian gần gũi, gắn bó mật thiết với cuộc sống của nhân dân.- Nguyễn Khoa Điềm khẳng định đất nước là của
nhân dân, chính nhân dân là những người làm nên đất nước.
– Đất nước mang vẻ đẹp bình dị, gần gũi, thân thuộc nhưng vô cùng thiêng liêng.
2.3. Kết bài
Cảm nhận về hình tượng đất nước thông qua đoạn trích.
3. Bài văn mẫu
Đề bài: Vẻ đẹp của hình tượng đất nước trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Gợi ý làm bài
3.1. Bài văn mẫu số 1
Không biết từ bao giờ, hình tượng đất nước đã đi vào thơ ca Việt Nam một cách tự nhiên đến thế. Biết bao áng văn, áng thơ đã viết về hình tượng này nhưng mỗi nghệ sĩ lại có những cách nhìn nhận riêng. Với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước là những gì gần gũi và thiêng liêng nhất.
Trong toàn bộ đoạn trích “Đất Nước”, tác giả đã khắc họa hình tượng đất nước qua nhiều phương diện khác nhau như lịch sử, văn hóa, không gian, thời gian.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó”
Vậy là đất nước đã xuất hiện, ra đời từ rất lâu rồi. Ngược theo dòng lịch sử thì đất nước ta đã có từ hơn bốn ngàn năm về trước. Đất nước hiện hữu trong những câu chuyện cổ tích của mẹ, trong miếng trầu của bà và “lớn lên” khi dân ta biết trồng tre làm vũ khí đánh đuổi quân xâm lược để bảo vệ nước nhà. Đất nước giống như một sinh thể sống, có quá trình sinh ra, lớn lên và tồn tại song song với cuộc sống của con người. “Miếng trầu bà ăn” gợi chúng ta nhớ đến sự tích “Trầu cau”. Ngoài ra miếng trầu còn là “đầu câu chuyện”, người ta thường mời nhau ăn trầu để thể hiện sự hiếu khách, lịch sự của mình. Chi tiết “dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” khiến bạn đọc liên tưởng đến truyền thuyết “Thánh Gióng” – người đã nhổ những bụi tre ven đường để quật vào giặc n khiến chúng bỏ chạy tan tác. Không chỉ vậy, đất nước còn gắn liền với các phong tục tập quán của nhân dân ta như tục búi tóc sau đầu của người phụ nữ Việt, lối sống tình nghĩa thủy chung, thương nhau gừng cay muối mặn. Từ khi có đất nước, nhân dân ta biết lấy tên cái kèo, cái cột để đặt tên cho các con với mong muốn các con sẽ khỏe mạnh, ngoan ngoãn. Từ khi ấy, nhân dân ta cũng biết lao động cần cù để làm ra hạt gạo, phục vụ nhu cầu sống hàng ngày. Đất nước không chỉ “bắt đầu”, “lớn lên” mà còn trưởng thành, vững chãi, hùng mạnh hơn sau những cuộc chiến đấu chống ngoại xâm và các thế lực thù địch âm mưu phá hoại đất nước. Đất nước hiện hữu từ trong những gì bé nhỏ, bình dị và thân thuộc nhất của cuộc sống đời thường. Nó hiện diện trong các loại hình văn học dân gian, hiện diện trong các phong tục tập quán, những truyền thống, lối sống của nhân dân ta và hiện diện cả trong “anh”, trong “em”:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước”
Đất nước là một phần máu thịt của mỗi con người, gắn bó với cuộc đời riêng của mỗi chúng ta:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Song hành cùng “thời gian đằng đẵng” là “không gian mênh mông”. Nhà thơ chiết tự hai từ “Đất” và “Nước” để bạn đọc hiểu rõ hơn về hai tiếng gọi cao quý, thiêng liêng ấy. Đất Nước gắn với những bước chân của “anh” đến trường, nơi “em” tắm, nơi “ta” hò hẹn, nơi “em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Tác giả nhận ra những gì nhỏ bé, giản đơn nhất cũng góp phần không nhỏ để làm nên đất nước. Ông ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam, ca ngợi những phong tục tập quán mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam từ bao đời nay.
Vẻ đẹp hình tượng đất nước được tạo nên bởi sự thống nhất, hài hòa của nhiều phương diện. Đất nước trở nên đẹp hơn trong khoảnh khắc dân mình đoàn tụ. Đó là lối sống nghĩa tình, là truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta. Đất nước máu xương, là tâm hồn nên mỗi chúng ta phải biết:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời”
Đất nước đẹp như vậy nên mỗi người cần có trách nhiệm gắn bó, phát triển đất nước để đất nước ngày càng giàu đẹp.
Đất nước được tạo ra bởi những con người vô danh nhưng họ lại vô cùng anh dũng:
“Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Họ không được tất cả mọi người nhớ mặt, nhớ tên nhưng họ đã kiên cường chiến đấu để các thế hệ sau có được một đất nước như ngày hôm nay. Họ sống giản dị, lặng lẽ cống hiến và hi sinh cho dân tộc. Họ đã hóa thân vào dáng hình xứ sở trường tồn cùng thời gian.
Tư tưởng đất nước của nhân dân được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện rõ rệt trong đoạn trích này:
“Để Đất Nước này là Đất Nước nhân dân
Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Ông khẳng định đất nước của nhân dân bởi chính nhân dân là người làm nên đất nước. Họ đã giữ gìn những truyền thống văn hóa của dân tộc để những giá trị ấy không bị mai một:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”
Bằng giọng điệu suy tư, ngôn từ mộc mạc và sự linh hoạt trong việc sử dụng các thành ngữ, các chất liệu văn hóa dân gian, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện được vẻ đẹp của hình tượng đất nước. Đó là vẻ đẹp giản dị, thân thuộc nhưng vô cùng thiêng liêng. Cách nhìn nhận này đã góp phần tạo nên sự đa dạng của hình tượng đất nước trong văn học Việt Nam.
3.2. Bài văn mẫu số 2
Đối với mỗi con người, hai tiếng đất nước, Tổ quốc bao giờ cũng thiêng liêng hết mực. Chẳng vậy mà các nhà thơ, nhà văn luôn có cho mình một cảm hứng dạt dào khi viết về hình tượng đất nước.Cũng với những tình cảm dành cho tổ quốc, con người Việt Nam, nhưng ta lại nhận thấy rằng trong thơ ông nổi lên những nét mới lạ và cảm nhận riêng rất độc đáo. Trong Trường ca Mặt đường khát vọng với đoạn thơ Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm đã đưa chúng ta đến với những khám phá cực kỳ mới mẻ về đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại đồng thời bộc lộ tình cảm thắm thiết sâu nặng của mình đối với đất nước, nhân dân.
Đất nước là một trong những nguồn cảm hứng chung của nhiều nhà thơ nhà văn, ta đã từng biết đến một đất nước thon thả giọt đàn bầu trong sáng tác của nhà thơ Tạ Hữu Yên, một đất nước hình tia chớp trong thơ Trần Mạnh Hảo, hoặc cũng có thể là một đất nước nhìn từ xa, nhìn từ biển của Nguyễn Việt Chiến,… Còn với riêng Nguyễn Khoa Điềm ông lại có những cảm nhận mới khi tập trung vào quá trình hình thành, lớn lên và tồn tại của Đất Nước. Có thể nói Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ đầu tiên và cũng là nhà thơ duy nhất trầm tư suy nghĩ và nói về thời điểm ra đời của Đất Nước, với những dòng thơ mở đầu đầy suy tư:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Từ “ta” ở đây vừa là lời tự xưng của nhà thơ, vừa có ý nghĩa đại diện cho cả một thế hệ trong đó có cả “anh” và “em” cho nên trong quan niệm của tác giả đất nước có trước khi mỗi con người, mỗi thế hệ lớn lên, đó là một đất nước có từ ngàn xưa từ rất lâu đời. Cũng trong mạch cảm hứng ấy tác giả còn nhận ra rằng đất nước bắt đầu từ “miếng trầu bây giờ bà ăn”, khéo léo gợi lại một trong những tập tục nổi tiếng của người Việt xưa ấy là tục ăn trầu nhuộm răng, thờ cúng, lễ lộc bằng trầu cau. Cũng có nghĩa là một Đất Nước được hình thành từ trước khi dân ta biết đến tục ăn trầu, khi dân ta biết yêu nhau, gắn bó cùng nhau, miếng trầu bà ăn cũng có đến hàng nghìn năm tuổi, cùng tuổi với Đất Nước.
Cũng trong mạch cảm xúc về thời điểm ra đời của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…”
Nguyễn Khoa Điềm lại tiếp tục khéo léo gợi lại những tập tục đặc trưng của dân tộc ta, phụ nữ Việt Nam xưa vẫn ưa thích kiểu búi tóc thành búi thấp sau gáy rồi dùng trâm, dùng lược cố định. Lời thơ cũng làm sống lại cái tình cảm vợ chồng thủy chung son sắt của cha, của mẹ cũng như của biết bao đôi lứa trên Đất Nước này, đó là tình cảm sâu sắc biểu trưng bằng hình ảnh “gừng cay muối mặn” xuất phát trong ca dao Việt Nam xưa. Rồi “Cái kèo cái cột thành tên” lại là một tập tục độc đáo tâm linh của người Việt mà ở đó, họ đặt cho con cái mình những cái tên sao cho thật xấu, thật tầm thường, dung dị mà gần gũi, hòng tránh cho khỏi bị ma quỷ, thần thánh để ý mà bắt mất con, từ đó ta cũng thấy được tình cảm thiêng liêng sâu sắc của cha mẹ dành cho những đứa con bé bỏng, những con người sẽ xây dựng Đất Nước mai sau. Câu thơ “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng” đã thể hiện sự thấu hiểu sâu sắc của tác giả về đời sống vật chất của người Việt, gợi nhắc về nền văn minh lúa nước đã gắn bó với con người từ thuở các vua Hùng dựng nước, để làm ra hạt gạo nhỏ bé con người đã phải bỏ ra biết bao công sức, mới được thứ gạo sạch thơm trắng ngần. Và cũng tương tự như miếng trầu, hạt thóc, hạt lúa cũng có cùng tuổi với Đất Nước, sánh vai đi cùng với Đất Nước, làm nên Đất Nước và con người Việt Nam đã hàng ngàn năm nay. Đất nước có từ khi nhân dân ta biết đến tục ăn trầu, phụ nữ ta biết búi tóc sau đầu, con người biết yêu thương nhau thủy chung tình nghĩa, biết đặt tên con là “cái kèo”, “cái cột”, rồi biết làm ra hạt gạo để nuôi sống chính mình. Tất cả những định nghĩa trên đều cho thấy một điều rõ ràng Nguyễn Khoa Điềm đang cố gắng xóa mờ đi cái khái niệm thời gian lịch sử cụ thể, từ đó gợi lên một hình tượng Đất Nước có từ rất xa xưa, từ rất lâu đời.
Không chỉ dừng lại ở những phát hiện về thời gian ra đời của đất nước mà Nguyễn Khoa Điềm còn có những cảm nhận tinh tế về phạm vi tồn tại của Đất Nước, điều này được nhà thơ khẳng định một cách trực tiếp trong dòng thơ thứ 2 của tác phẩm “Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể”. Lời thơ đã gợi ra một không khí Đất Nước trong những câu chuyện cổ đặc biệt là truyện cổ tích, những câu chuyện vốn rất thân quen và gần gũi đối với mỗi con người ngay từ thuở ấu thơ, từ trong những lời kể thiết tha, ngọt ngào của mẹ. Có thể thấy rằng cách cảm nhận về Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm khác hẳn cách cảm nhận về Đất Nước của Lý Thường Kiệt trong Nam Quốc Sơn Hà là Đất Nước tồn tại trong sách trời, rất thiêng liêng rất cao cả, rất thần bí. Với ông Đất Nước tồn tại và gắn bó mật thiết với con người từ trong những gì gần gũi thân thuộc nhất, câu chuyện mẹ kể, miếng trầu bà ăn, hạt gạo ta trồng, từ trong những cái tên của con người, Đất Nước không phải là khái niệm mơ hồ, bí ẩn mà Đất Nước mang một vẻ gần gũi, thiết tha hòa mình với con người, với cuộc sống của nhân dân ta từ bao đời nay. Điều đó càng được tác giả khẳng định trong những câu thơ sau:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn”
Đất Nước có trong anh, trong em, trong mỗi người nên khi chúng ta yêu thương nhau Đất Nước sẽ trở nên hài hòa nồng thắm, còn khi chúng ta đồng lòng chung sức thì đất nước sẽ vẹn toàn to lớn. Trong cảm nhận của tác giả Đất Nước không chỉ là bầu không gian sống của mỗi con người mà Đất Nước còn tồn tại hiện diện ngay trong bản thân của mỗi cá nhân “Đất Nước là máu xương của mình”.
Nguyễn Khoa Điềm nói về quá trình lớn lên của Đất Nước chỉ trong một câu thơ rất sâu sắc “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”, đối với tác giả chính quá trình đấu tranh bền bỉ, kiên cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm đã giúp cho Đất Nước trưởng thành vững chãi hơn. Câu thơ gợi nhớ lại truyền thuyết Thánh Gióng cổ xưa, người anh hùng nhổ tre làm vũ khí diệt giặc, và trong những lần kháng chiến chống giặc ngoại xâm sau này, tre xanh luôn có những vai trò nhất định trong kháng chiến, trở thành biểu tượng cho một dân tộc, một Đất Nước kiêu hùng, mạnh mẽ quật cường như loài tre xanh, với sức sống tiềm tàng mãnh liệt.
Bên cạnh việc khám phá quá trình ra đời, hình thành và tồn tại của Đất Nước nguyễn Khoa Điềm còn có những định nghĩa sâu sắc, độc đáo về Đất Nước . Thứ nhất, Đất Nước là sự thống nhất của ba phương diện chiều rộng không gian địa lí, bề dày thời gian lịch sử và chiều sâu văn hóa.
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và u Cơ
Đất Nước với chiều rộng không gian địa lý kéo dài từ không gian sinh hoạt cá nhân “nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”, đến những không gian sinh hoạt cộng đồng rộng lớn như “nơi dân mình đoàn tụ”, rồi từ không gian của thực tại đến không gian của truyền thuyết thần thoại như “nơi Chim về”, “nơi Rồng ở”,… Chính những không gian này đã gợi lên tầm vóc không gian địa lý của Đất Nước. Gắn với những không gian ấy, cùng những ca dao, truyền thuyết, thần thoại về Lạc Long Quân và u Cơ thì tác giả đã khéo léo gợi ra thời gian lịch sử của Đất Nước, kéo dài suốt từ thời Lạc Long Quân – u Cơ dựng nước cho đến tận “anh với em hôm nay” cho đến tận “mai này con ta lớn lên”. Đồng thời những chất liệu trên cũng gợi ra chiều sâu văn hóa của dân tộc ngay từ thuở đất nước sơ khai. Khái niệm thứ hai, Đất Nước chính là sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, trong cảm nhận của nhà thơ Đất Nước là nơi anh đến trường, là bến nước, bờ sông là nơi anh và em cũng như bao đôi lứa cùng hò hẹn yêu nhau, nhưng Đất Nước không chỉ là những nơi riêng tư như vậy mà nó còn là nơi “dân mình đoàn tụ” là nơi sinh hoạt đời sống cộng đồng.
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
Từ những định nghĩa như vậy Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến định nghĩa trung tâm về Đất Nước đó là Đất Nước là dòng máu chảy trong huyết quản, là xương thịt cơ thể, là sự sống của con người vừa quý giá vừa thiêng liêng, vừa gần gũi thân thiết. Lời thơ như lời tâm sự, giảng giải đầy tâm huyết ấy đã lay động, thức tỉnh ý thức trách nhiệm của mỗi con người đối với Đất Nước. Có thể nói rằng ngay từ trong phần một của đoạn thơ Đất Nước tư tưởng Đất Nước của nhân dân đã hiện lên một cách khá rõ rệt là tiền đề cho các phần tiếp theo.
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”
Trong phần thứ hai Nguyễn Khoa Điềm tập trung làm nổi bật tư tưởng Đất Nước của nhân dân, bằng những dẫn chứng nhân dân chính là người làm ra Đất Nước, vậy họ là những ai? Họ là những con người vô danh không tên không tuổi, được hiện lên một cách khái quát qua hình ảnh “những người vợ nhớ chồng”, “cặp vợ chồng yêu nhau”, “người học trò nghèo” và “những người dân nào”. Bên cạnh những hình ảnh con người vô danh ta còn thấy hiện lên rất nhiều con vật, ngựa của Thánh Gióng, 99 con voi của vua Hùng, con cóc, con gà quê hương, con rồng lặng im,…Ta có thể thấy rằng bên cạnh những con vật trong thần thoại, truyền thuyết còn có những con vật gần gũi thân thiết cũng góp phần cấu thành nên Đất Nước, điều đó khẳng định rằng dù cao quý hay thân thuộc, tầm thường thì chỉ cần biết hóa thân mình vào Đất Nước thì đều đáng được trân trọng, yêu quý. Chính những ý thơ này đã đem đến sức lay động mạnh mẽ, làm thức dậy ý thức trách nhiệm vì Đất Nước của mỗi con người. Những địa danh được nhắc đến trong bài “núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, núi Bút, non Nghiên, Hạ Long, Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm” trong dòng suy tưởng của Nguyễn Khoa Điềm nó không đơn thuần là những danh lam thắng cảnh thuần túy mà nó đã được cảm nhận như là sự hóa thân của cuộc đời, số phận, nỗi niềm của cha ông qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, ghi đậm dấu ấn tâm hồn, lối sống, cách suy nghĩ, phong tục tập quán cho đến quan niệm và tư tưởng sâu sắc của nhân dân.
“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”
Lời thơ rất ngọt ngào, tha thiết của Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định tiếp một điều rằng chính nhân dân lao động đã dựng xây và chiến đấu hết mình để bảo vệ Đất Nước. Đồng thời hai câu thơ “Nhiều người đã trở thành anh hùng/Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ” chính là lời ngợi ca nhân dân, ngợi ca những con người không tên không tuổi, những con người đã làm nên Đất Nước.
Không chỉ dựng xây Đất Nước, nhân dân còn chính là người đã tạo ra truyền thống văn hóa lịch sử của Đất Nước.
“Những em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
“Bốn nghìn lớp người” chính là 4000 năm lịch sử của Đất Nước, biết bao nhiêu thế hệ nhân dân đã nối tiếp nhau để làm nên lịch sử Đất Nước, đối với tác giả lịch sử Đất Nước không phải là sự thay đổi triều đại hay nối tiếp ngôi báu của các ông hoàng bà chúa mà lại là sự nối tiếp của các thế hệ nhân dân, chính những con người đã làm nên một Đất Nước vẹn toàn, vì vậy Đất Nước là của nhân dân chứ không ai khác. Họ là những con người đông đảo không tên không tuổi, không ai nhớ mặt đặt tên, sống giản dị, chết bình tâm, không do dự đắn đo, sẵn sàng hy sinh thân mình cho Đất Nước.
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Cuối cùng nhân dân chính là người đã sáng tạo ra dòng chảy văn hóa cho cả một dân tộc, cho 4000 năm văn hiến rực rỡ, kiêu hùng, rất nhiều giá trị vật chất và tinh thần đã được nhân dân giữ lại và truyền đạt cho đời sau, để con cháu phát huy và kế thừa những truyền thống tốt đẹp của cha ông xây dựng bao đời.
Kết lại, những điểm mới trong sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm đều xuất phát từ tư tưởng tiến bộ trong thời kỳ Cách mạng ấy là tư tưởng Đất Nước của dân, do dân và vì dân là tư tưởng chủ đạo dẫn mạch cảm xúc đi xuyên suốt bài bằng những khám phá mới trên nhiều bình diện văn hóa, lịch sử, địa lý, nguồn gốc ra đời, quá trình hình thành phát triển Đất Nước. Đặc biệt với giọng thơ thủ thỉ tâm sự, ngọt ngào bộc lộ những cảm xúc chân thành, thiết tha phối hợp với cách sử dụng chất liệu văn hóa dân gian nhuần nhuyễn, sáng tạo đã làm cho bài thơ trở thành tác phẩm viết về đề tài đất nước tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại.
———-Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp———–