1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý
2. Dàn bài chi tiết
2.1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả Xuân Quỳnh và bài thơ “Sóng”.
– Bài thơ “Sóng” là những trạng thái, cung bậc cảm xúc đầy sinh động của tâm hồn người con gái khi yêu. – Đặc sắc của bài thơ là sự kết hợp giữa nét đẹp hiện đại và nét đẹp truyền thống để làm nên nội tâm, tình cảm đầy phong phú của người con gái.
2.2. Thân bài
a. Vẻ đẹp tình yêu truyền thống
– “Sóng” thể hiện được tình yêu mang nét đẹp truyền thống.
– Khi yêu “em” cũng mang trong mình nỗi nhớ da diết, nỗi bồi hồi khắc khoải đối với người mình yêu.
– Ta có thể gặp quan niệm của Xuân Quỳnh về nỗi nhớ có điểm gặp gỡ với nỗi nhớ trong những bài ca dao, dân ca xưa.Nỗi nhớ trong thơ Xuân Quỳnh lại da diết, khắc khoải đến mức vượt qua mọi giới hạn về không gian gian, thời gian, trong thế giới của ý thức và cả sự vô thức.
– Trong tình yêu, “em” cũng luôn giữ gìn được tấm lòng thủy chung son sắc.
b. Vẻ đẹp tình yêu hiện đại
– “Sóng” là tiếng nói của một cái tôi trong tình yêu đầy tính mới mẻ, hiện đại.
– Tác giả Xuân Quỳnh đã diễn tả đầy sinh động những trạng thái tình cảm mang tính đối lập, mâu thuẫn trong tâm hồn người con gái.
– Mượn hình ảnh của sóng, nữ sĩ đã gợi ra những trạng thái đối cực trong tâm trạng người con gái.
– Sóng ngoài đại dương có lúc ồn ào, dữ dội khi phong ba bão táp nhưng cũng có lúc dịu êm, lặng lẽ khi trời yên biển lặng thì tâm trạng người con gái khi yêu cũng vậy, sẽ có những lúc nồng nhiệt đắm say nhưng cũng có khi trầm lắng, dịu dàng.
– Cái mới mẻ, hiện đại trong hồn thơ Xuân Quỳnh được thể hiện trong bài thơ đó chính là cái táo bạo, khát vọng hướng đến tình yêu, chủ động tìm kiếm tình yêu của cuộc đời mình.
– “Em” trong sóng thể hiện một tâm hồn đầy sôi nổi, có sự chủ động và khát vọng sống hết mình cho tình yêu.
– Mong muốn được hòa nhập trọn vẹn tình yêu nhỏ của bản thân để tạo nên tình yêu bất diệt, vĩnh cửu của cuộc đời.
– Nữ sĩ đã có niềm tin bất diệt vào tình yêu, từ đó bày tỏ khát vọng thành thực của bản thân là được dâng hiến, sống hết mình cho tình yêu.
2.3. Kết bài
– Qua bài thơ “Sóng” người đọc vừa cảm nhận được những nét mới mẻ, hiện đại vừa thấy được những quan niệm truyền thống về tình yêu.
– Chính sự kết hợp đặc sắc này đã làm nên sức hấp dẫn đặc biệt cho bài thơ Sóng trong trái tim của những người đang yêu.
3. Bài văn mẫu
Đề bài: Phân tích vẻ đẹp tình yêu truyền thống và hiện đại trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh
Gợi ý làm bài
3.1. Bài văn mẫu số 1
“Làm sao sống được mà không yêu
Không nhớ không thương một kẻ nào”
Những vần thơ của Xuân Diệu thật đáng phải suy ngẫm. Cuộc sống sẽ mất đi một phần ý nghĩa của nó nếu thiếu vắng tình yêu. Dường như thẩm thấu được điều đó, Xuân Quỳnh cũng đã yêu và gửi gắm tình yêu của mình vào trong thơ ca. Bài “Sóng” là một minh chứng cho điều đó. Đặc biệt là vẻ đẹp truyền thống và hiện đại của người phụ nữ trong bài thơ sóng đã thể hiện trọn vẹn những cung bậc cảm xúc của người phụ nữ khi yêu. Đồng thời, ta nhận thấy rõ quan niệm tình yêu của nữ sĩ Xuân Quỳnh.
Xuân Quỳnh là một người nghệ sĩ tài năng. Bà không những là một diễn viên múa chuyên nghiệp mà còn là một nhà thơ có phong cách đằm thắm, thiết tha. “Sóng” là một trong những bài thơ tình hay nhất của Xuân Quỳnh, được viết vào năm 1967, tại bãi biển Diêm Điền (Thái Bình), in trong tập “Hoa dọc chiến hào” (1968). Bài thơ đã khắc họa thành công vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu qua hình tượng “sóng”. Vẻ đẹp ấy vừa mang nét truyền thống, vừa mang vẻ hiện đại.
Vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ trong bài thơ sóng được biểu hiện thông qua: Nỗi nhớ trong tình yêu; Sự thủy chung, son sắt trong tình yêu; Sự dịu dàng, đằm thắm, duyên dáng, giàu nữ tính trong tình yêu.
Vẻ đẹp hiện đại của người phụ nữ trong bài thơ sóng được biểu hiện thông qua: Chủ động, trực tiếp bày tỏ nỗi nhớ; Sự mãnh liệt, táo bạo trong tình yêu; Tình yêu hòa tan vào biển lớn của cuộc đời.
Xuân Quỳnh đã mượn hình tượng sóng để khắc họa rõ nét tâm tình của người phụ nữ khi yêu:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”
Những trạng thái chuyển động bất thường, đối lập của con sóng cũng chính là những trạng thái đối cực của người phụ nữ trong tình yêu. Xuân Quỳnh đã khéo léo xây dựng nghệ thuật đối lập để thể hiện tâm tính của người phụ nữ khi yêu: Lúc mãnh liệt, cuồng nhiệt, đắm say, cũng có lúc đằm thắm, dịu dàng, đầy nữ tính. Những sắc thái tâm lý ấy là một phẩm chất muôn đời của con người khi yêu. Tuy rằng cảm xúc ấy có những lúc đối chội, mâu thuẫn nhau nhưng nó cùng thống nhất hài hòa trong tính cách của người phụ nữ đang yêu.
Tình yêu truyền thống không chỉ thể hiện ở những cung bậc cảm xúc đối lập nhau mà còn thể hiện ở nỗi nhớ nhau da diết, miên man:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”
“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi, như đứng đống lửa, như ngồi đống than” (Trích). Tình yêu trong ca dao đã thể hiện rõ nỗi nhớ. Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong bài “Sóng” dường như cũng từng bắt sâu vào cội nguồn dân tộc qua những lời ca dao ấy. Tình yêu luôn đi cùng với nỗi nhớ, đặc biệt là khi xa cách. Những con sóng mang trong mình nỗi nhớ cồn cào. Và nỗi nhớ ấy bao trùm cả không gian, thời gian: Ngày – đêm; dưới lòng sâu hay trên mặt nước. Nỗi nhớ mãnh liệt, da diết của sóng khi phải xa bờ cũng tựa hồ như nỗi nhớ của người phụ nữ dành cho người mình yêu. Qua phép nhân hóa hình tượng sóng và bờ, Xuân Quỳnh đã gián tiếp bộc lộ nỗi nhớ đau đáu trong trái tim, tâm hồn của người phụ nữ đang yêu.
Tình yêu của người phụ nữ vừa nồng nàn, say đắm, vừa đằm thắm, dịu dàng và cũng vừa thủy chung duy nhất:
“Dẫu xuôi về phương bắc
…
Dù muôn vời cách trở”
Trong vũ trụ của tình yêu, người phụ nữ chỉ có một phương duy nhất “phương anh”. Lời khẳng định ấy đã thể hiện sự thủy chung, kiên định của em đối với anh. Đất trời có bốn phương nam – bắc – tây – đông như kéo dài không gian xa cách giữa hai người yêu nhau.
Dù vậy, người phụ nữ trong thơ của Xuân Quỳnh vẫn luôn có niềm tin vào tình yêu đích thực. Dù có bao nhiêu trở ngại, xa cách đi nữa thì tình yêu ấy chỉ thêm bền chặt chứ không rạn nứt bao giờ. Cũng như những con sóng, dù có trải qua sóng gió tới đâu thì cuối cùng nó cũng sẽ cập bờ vậy đó. Niềm tin tuyệt đối vào một tình yêu vững bền là vẻ đẹp của tình yêu theo quan niệm truyền thống.
Nếu ở hai câu thơ đầu trong khổ thơ thứ nhất, người đọc đã cảm nhận rõ nét khát vọng tình yêu đẹp đẽ trong tâm hồn của người phụ nữ, thì khép lại khổ thơ, những khát vọng ấy càng trở nên mãnh liệt, dứt khoát hơn:
“Sông không hiểu nỗi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Trái tim của người phụ nữ đang yêu vốn dĩ đã rạo rực, mãnh liệt. Ấy thế mà Xuân Quỳnh còn bộc lộ sâu sắc và mới mẻ hơn cái cung bậc cảm xúc đó. Tình yêu trong thơ nữ sĩ không chấp nhận được sự tầm thường, nhỏ hẹp. Trái tim yêu đương phải hướng tới cái lớn lao và sẵn sàng vượt qua mọi trở ngại để hướng tình yêu đích thực. Cũng như con sóng kia luôn khao khát tự nhận thức, khám phá mình. Nó trở nên quyết liệt, khi “sông không hiểu nổi mình”, con sóng sẽ tìm ra tận bể, tìm đến với sự bao dung, rộng lớn hơn.
Khác với người phụ nữ xưa, người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh cũng giống như con sóng. Họ chủ động và táo bạo trong tình yêu. Họ không còn cam chịu, nhẫn nhục nữa mà sẽ vượt qua rào cản để tìm lấy một tâm hồn đồng điệu cho mình. Thể thơ năm chữ được sử dụng phù hợp đã thể hiện được sự dứt khoát, tự tin, quyết liệt của người phụ nữ trên hành trình tìm kiếm hạnh phúc đích thực của đời mình. Qua đó, ta cảm nhận được cái tình và cái tình trong cách khắc họa thơ của nữ sĩ Xuân Quỳnh.
Người phụ nữ trong bài thơ không chỉ gián tiếp bộc lộ nỗi nhớ qua hình tượng sóng. Bởi chăng sóng chưa thỏa mãn được cảm xúc, tâm tư của cái tôi trữ tình, do vậy mà nhà thơ đã trực tiếp bộc bạch nỗi lòng của mình:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Người phụ nữ trong tình yêu luôn khao khát tìm đến bến bờ hạnh phúc. Do vậy, họ không còn để cho những con sóng kia nói hộ lòng mình nữa. Họ phải trực diện đối mặt với những cảm xúc từ tận đáy lòng mình “Lòng em nhớ đến anh”. Nỗi nhớ ấy không bình thường tí nào cả. Nó len lỏi cả trong tiềm thức của nhân vật trữ tình. Rõ ràng, “anh đã chiếm trọn cả Tâm – Trí” (Trích).
Điều đặc biệt tạo nên vẻ đẹp hiện đại của người phụ nữ trong bài thơ “Sóng” đó chính là khát vọng tình yêu vĩnh hằng, ý nghĩa, mà người phụ nữ hướng tới. Họ không chỉ dám sống hết mình với tình yêu mà còn khao khát tình yêu nhỏ bé của mình chan hòa với tình yêu rộng lớn của cuộc đời:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
Chỉ có một vài con sóng nhỏ nhoi thì không thể làm nên đại dương rộng lớn. Đại dương là nơi hội tụ của trăm vạn con sóng. Thấm thía được quy luật ấy, Xuân Quỳnh đã nhận ra chỉ có sự dâng hiến, hòa nhập tình yêu cá nhân con người vào tình yêu cuộc đời lớn lao, thì nó mới có thể trường tồn mãi mãi.
Hai chữ “tan ra” đã thể hiện cái khát vọng hòa làm một của nữ sĩ. Người ta có thể dễ lãng quên đi một con sóng bé nhỏ, một tình yêu cá nhân ích kỷ. Nhưng chẳng ai lại quên được cả đại dương rộng lớn và cái tình yêu hòa vào biển lớn của cuộc đời kia. Hồn thơ trẻ trung, sôi nổi nhưng cũng hết mực trăn trở, suy tư của Xuân Quỳnh đã cho thấy vẻ đẹp thánh thiện của người phụ nữ trong tình yêu.
Thông qua hình tượng “sóng”, Xuân Quỳnh đã thể hiện thành công vẻ đẹp truyền thống và hiện đại của người phụ nữ trong tình yêu. Qua ngòi bút điêu luyện của mình, nữ sĩ đã cho người đọc một góc nhìn mới hơn, tinh tế hơn trong tình yêu. Đọc “Sóng” của Xuân Quỳnh, người đọc luôn tìm thấy những giá trị mới mẻ mà nhà thơ đã gửi gắm. Càng đọc bài thơ, ta càng say, say với cái tình yêu nồng nàn, thủy chung của người phụ nữ và say với cả cái tinh yêu chủ động, quyết liệt của họ.
3.2. Bài văn mẫu số 2
“Sóng” là bài thơ tiêu biểu của Xuân Quỳnh. Qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh diễn tả cụ thể, sinh động khát vọng tình yêu với những cung bậc tình cảm phong phú và vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu, hồn nhiên chân thật, say đắm nồng nàn, đôn hậu, thủy chung. Tình yêu trong “Sóng” vừa mang tính chất tế nhị, kín đáo của truyền thống vừa rất sôi nổi, mãnh liệt hết sức hiện đại.
“Tình yêu mang tính chất truyền thống như tình yêu muôn đời” là tình yêu gắn liền với những đặc điểm cảm xúc, tình cảm có tính quy luật. Đó là quy luật tình cảm thường gặp trong tình yêu của lứa đôi như nhớ nhung, giận hờn, khao khát. Tình yêu “hiện đại” là tình yêu đề cao cái tôi cá nhân, đề cao những cảm xúc, khao khát mãnh liệt vượt qua những giới hạn. Đó là cá tính mạnh mẽ của người phụ nữ thế kỷ hai mươi bứt phá những nhỏ hẹp đời thường để đến với tình yêu rộng lớn bao la. Hiện đại ở đây gắn liền với quan niệm tình yêu tự do chứ không phải là thụ động như tình yêu truyền thống.
Trước hết, “Sóng” thể hiện một tình yêu có tính chất truyền thống như tình yêu muôn đời”:
Tình yêu ấy có nhiều trạng thái biểu hiện, khi lặng lẽ dịu êm, hiền hòa, êm dịu. Đó là chất nữ tính – một phẩm chất di truyền từ ngàn đời ở phụ nữ. Khi lại ồn ào, dữ dội với những ghen tuông, giận hờn vô cớ (cung bậc muôn đời khi yêu). Hai trạng thái cảm xúc ấy “Dữ dội – dịu êm/Ồn ào – lặng lẽ” là đối cực của sóng nhưng cũng là những cảm xúc nội tâm đầy phức tạp, mâu thuẫn nhưng cũng rất thống nhất hài hòa trong tâm hồn của người phụ nữ khi yêu:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”
Hai trạng thái đối lập này cùng tồn tại trong một thể thống nhất là sóng, khiên sóng luôn dạt dào, không bao giờ đứng yên. Phép nhân hóa “Sóng tìm ra tận bể” gợi liên tưởng sóng như có ý thức, có khát vọng tìm đến cái rộng lớn, bao la. Những đặc điểm này của sóng đã có “từ ngày xưa và ngày sau vẫn thế”, cách nói khẳng định, nhấn mạnh, đây là bản chất muôn đời của sóng.
Cách miêu tả những trạng thái bất thường của sóng gợi lên những khát vọng tình yêu trong tâm hồn đầy bí ẩn của người con gái. Khi bồng bộn, sôi nổi, khi kín đáo sâu sắc, vừa đắm say vừa tỉnh táo, vừa nồng nàn, vừa âm thầm, vừa mãnh liệt vừa ngàn lần yếu mềm. Điểm gặp gỡ đồng điệu và kì lạ giữa sóng và nhân vật trữ tình “em” cho thấy sóng chính là ẩn dụ của “em”, của khát vọng tình yêu nhiều thao thức nhưng hạnh phúc vô bờ. Sóng tự ngàn năm vẫn từ sông ra bể, từ giới hạn chật hẹp tới không gian rộng lớn.
Trái tim người con gái khi yêu cũng tự nhận thức được những biến động khác thường của lòng mình, khao khát vượt ra giới hạn chật hẹp cô đơn của cái tôi cá nhân, tìm đến sự rộng lớn bao la của tình yêu thương giống như hành trình của sóng từ sông ra bể. Hình ảnh ẩn dụ này cũng gợi đến những khát khao, suy tư, trăn trở trong trái tim xôn xao, rạo rực tình yêu của người con gái.
Tình yêu truyền thống không thể thiếu nỗi nhớ thương và sự thủy chung. Nếu thủy chung là thước đo của tình yêu thì nỗi nhớ lại là sức sống của tình yêu:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Khổ thơ trùng điệp hình ảnh những con sóng, gợi nỗi nhớ nồng nàn với nhiều cung bậc. Có khi, mặt biển lớn lao như biển cả, có lúc lại da diết, triền miên với thời gian, ngày đêm không ngủ được, lại có lúc trải rộng thiết tha với không gian phương Bắc, phương Nam và lại có lúc cũng không giấu nổi nỗi khắc khoải như con sóng nổi trên mặt nước. Và đôi khi, nỗi nhớ cũng chìm sâu trong trăn trở, nhớ quay quắt trong lòng như con sóng ngầm dưới biển sâu.
Không chỉ “nhớ anh, hướng về anh, nghĩ về anh” tình yêu đã lấp đầy con tim, khối óc, trở thành lẽ sống, trở thành khát vọng của cả cuộc đời. Hình ảnh sóng được nhân hóa mang “tình em” và “nỗi nhớ” của em thật thi vị. Từ cảm “ôi” xuất hiện giữa dòng thơ như một tiếng lòng rung rung giữa niềm nhớ nhung da diết. Nỗi nhớ được diễn tả trực tiếp qua ẩn dụ sóng đã da diết, sóng nhờ bờ đêm ngày, sóng ru, sóng vỗ, sóng vẫn thao thức với thời gian. Nỗi nhớ ấy tự nhiên, hồn nhiên, say đắm nhưng dường như vẫn chưa đủ mà còn được thể hiện trực tiếp qua nỗi nhớ của nhân vật trữ tình “em”:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Cấu trúc thơ thay đổi, cả bài là những khổ bốn dòng, nỗi nhớ lại được diễn tả bằng khổ thơ sáu dòng, đã phơi lộ cái tôi riêng của người nữ sĩ – một nỗi nhớ tràn đầy lòng yêu. Nó nồng nàn, đằm thắm hơn cả nỗi nhớ của sóng với bờ vì nó không chỉ tồn tại trong ý thức, mà dường như còn len lỏi vào trong tiềm thức, xâm nhập cả vào trong giấc mơ “cả trong mơ còn thức”.
Nỗi nhớ ấy tạo độ bền cho lòng chung thủy:
“Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương”
Điệp từ “dẫu” như khẳng định bao nhiêu thử thách, khó khăn phải vượt qua dù không gian mở rộng đa chiều “phương bắc phương nam” đầy cách xa trắc trở, dù thiên nhiên trời đất đổi thay “xuôi bắc ngược nam” nhưng nơi nào có “anh”, với“em”“hướng về anh một phương” bằng tình yêu thủy chung, duy nhất. Nỗi nhớ ở đây cồn cào, da diết, không thể nào yên, không thể nào nguôi. Nó cuồn cuộn dạt dào như những con sóng triền miên dai diết vô hồi vô hạn. Nhịp thơ trong suốt bài gợi đến nhịp của sóng. Nhưng rõ nhất, sôi nổi nhất, mãnh liệt nhất chính là ở đoạn thơ này.
Trong tình yêu, người phụ nữ luôn giữ một trái tim tràn đầy niềm tin. Niềm tin ấy đặt vào những con sóng biển. Sóng ở mãi tận giữa vô cùng, gặp muôn ngàn bão tố nhưng cuối cùng “Con nào chẳng tới bờ/Dù muôn vời cách trở” thì cuối cùng em tin tình yêu của chúng ta sẽ đến được cùng nhau.
Không chỉ mang nét đẹp truyền thống, ta còn cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn đầy hiện đại. Đó là sự mạnh bạo, chủ động bày tỏ những khát khao yêu đương mãnh liệt và rung động rạo rực trong lòng mình. Ở đây không còn sự thụ động, chờ đợi (như trong truyền thống) nữa. Nếu “Sông không chịu hiểu mình” thì sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó, “tìm ra tận bể”, đến với cái cao rộng, bao dung:
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Tình yêu hiện đại chính là khao khát tự lý giải bản thân và khao khát được dâng hiến và hy sinh.
Trong tình yêu, để hiểu được mình thì thật khó khăn bởi tình yêu là một trạng thái tâm lý khác thường, đầy bí ẩn và huyền diệu, nó có những lý lẽ riêng của con tim mà lý trí thông thường không thể lý giải được:
“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
Điệp ngữ “em nghĩ” diễn tả sự thao thức suy tư của người con gái trước câu hỏi cội nguồn của sóng cũng như câu hỏi cội nguồn của tình yêu. Đó là câu hỏi của muôn đời và muôn người nhưng chưa bao giờ có lời đáp trọn vẹn. Thi sĩ Xuân Diệu, ông hoàng của thơ tình đã phải mượn cảm hứng lãng mạn để lý giải tình yêu đó sao:
“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có khó gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng hương nhè nhẹ gió hiu hiu”
Hay Hàn Mặc Tử cũng thế, nhà thơ viết rằng:
“Xin hãy làm thinh chớ nói nhiều
Để nghe dưới đáy nước hồ reo
Để nghe tơ liễu rung trong gió
Và để nghe trời giải nghĩa yêu”
Bởi tình yêu là một tình cảm đẹp rất thật nhưng khó nói nên lời, cảm thấy rất rõ nhưng không dễ nắm bắt. Câu hỏi “Gió bắt đầu từ đâu?” không phải không giải thích được nhưng “em cũng không biết nữa” lại là cái lắc đầu nhỏ nhẹ, dễ thương, đầy nữ tính trước những cung bậc huyền bí của tình yêu. Xuân Quỳnh đã nắm bắt được một trạng thái tâm hồn rất chân thật, có tính chung cho mọi lứa đôi và biểu hiện nó thật duyên dáng. Tình yêu cũng như gió trời, sóng bể, cũng tự nhiên, hồn nhiên, bất ngờ và khó hiểu như thiên nhiên. Có thể nói, đây là cách phát hiện tình yêu rất nữ tính, trực cảm, kiểu Xuân Quỳnh.
Trước Xuân Quỳnh, có lẽ chưa người phụ nữ nào nói về tình yêu bằng những lời thiết tha, nồng nàn cháy bóng như thế. Những khát vọng yêu đương của người con gái trong thơ được bộc lộ mãnh liệt nhưng cũng thật giản dị: sóng chỉ khao khát tới bờ, cũng như “em” mong gặp được “anh”. Tình yêu của người con gái ở đây trong sáng, mãnh liệt, thiết tha, giản dị, thủy chung, một tình yêu hết mình và quên mình. Đó là điều rất mới mẻ cả trong đời lẫn trong thơ thời ấy. Khát vọng tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh không chỉ da diết khi còn trẻ, mà cả sau này, khi đã nếm trải nỗi đau, thất vọng trong tình yêu thì khát vọng tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh vẫn thiết tha, giàu yêu thương. Trong bài “Tự hát” (1984) chị viết:
“Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt, đời thường ai chẳng có
Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”
“Sóng” với Xuân Quỳnh không chỉ là biểu tượng của khát vọng tình yêu mà còn là phương tiện để bà bộc lộ những suy tư về cuộc sống, tình cảm:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
“Sóng vỗ bờ” là một chân lý tất yêu không gì thay đổi. Trên đại dương mênh mông có biết bao nhiêu con sóng và biết bao nhiêu trắc trở nhưng trăm ngàn con sóng vẫn tới bờ. Thế mà:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
Cuộc đời tuy dài nhưng không phải vô cùng, như biển lớn mênh mông nhưng không phải vô tận. Xuân Quỳnh rất nhạy cảm với sự trôi chảy của thời gian, ý thức về thời gian gắn với nỗi âu lo, dù vậy, nhân vật trữ tình trong thơ đã có cách ứng xử tích cực: âu lo nhưng không mấy thất vọng, mà chỉ khao khát nắm lấy hạnh phúc trong hiện tại, sống hết mình, mãnh liệt với tình yêu để vượt qua và chiến thắng sự hữu hạn của thời gian và đời người:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
Tan ra để hòa vào biển lớn của tình yêu, biển lớn của hạnh phúc vĩnh hằng. Bởi với Xuân Quỳnh, cách để sống mãi là sống với tình yêu của mình. Ước muốn ấy của bà vừa dịu dàng, đôn hậu, vừa nồng nàn thiết tha. Bài thơ khép lại nhưng hai cặp hình tượng “sóng – bờ, em – anh” vẫn đan cài vào nhau, ngời sáng một vẻ đẹp vĩnh hằng của tình yêu.
Với thể thơ năm chữ linh hoạt, bài thơ có khả năng gợi âm điệu dạt dào, vừa là cái nhịp nhàng của sóng biển, vừa là cái khắc khoải của sóng lòng với nhiều cung bậc cảm xúc. Xuân Quỳnh đã rất tài hoa trong việc ngắt nhịp, phối âm bằng trắc như những nhịp sóng khi dịu êm, khoan thai, khi dồn dập, dữ dội và nó cũng gợi đến những sự khắc khoải của sóng lòng. Phương thức tổ chức ngôn từ, hình ảnh sáng tạo hòa trộn thanh âm, nhịp điệu của sóng với những trăn trở, khát khao, nhớ thương, hờn giận đan xen nối tiếp trong cõi lòng của người con gái khi yêu cũng tạo nên một yếu tố nhạc tính của thơ.
Hình tượng ẩn dụ “sóng” là một sáng tạo độc đáo của Xuân Quỳnh. “Sóng” ở đây là những khát vọng tình yêu của “em” – của người con gái với những cảm xúc tình cảm phong phú, phức tạp.
———-LOP12.COM———–