1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý
2. Dàn bài chi tiết
2.1. Mở bài
– Mỗi nhà văn thường có một vùng đất riêng. Với Nguyễn Trung Thành, đó là Tây Nguyên. Ta đã gặp một anh hùng Núp trong Đất nước đứng lên thời chống Pháp, giờ đây ta lại đến với các nhân vật cụ Mết, Tnú, Dít trong Rừng xà nu thời chống Mĩ. Họ đều là những người con kiên cường bất khuất của núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ nhưng mỗi người lại mang những nét riêng, những vẻ đẹp riêng khó quên.
2.2. Thân bài
*Nét chung
– Yêu buôn làng, yêu nước, căm thù giặc sâu sắc.
– Quyết tâm đứng lên đánh giặc để bảo vệ buôn làng, bảo vệ đất nước.
– Kiên cường, bất khuất, dũng cảm tạo nên khí thế đồng khởi chống Mĩ. (Chọn những dẫn chứng thật tiêu biểu của ba nhân vật để chứng tỏ cái nét chung đó).
*Nét riêng
a. Cụ Mết: Già làng, người chỉ huy, linh hồn của làng Xô Man chống Mĩ Một cụ già khỏe mạnh quắc thước “như cây cổ thụ giữa buôn ngàn”, “ngực vồng cao như thân cây xà nu lực lường”, hai tay rắn chắc như hai gọng kìm, tiếng nói ồ ồ vang. Cụ chi huy dân làng xông vào giết sạch bọn ác ôn trên sàn nhà rông, đốt lên ngọn lửa đồng khởi cháy sáng khắp rừng Xô Man với chân lý giản dị “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!…” Cụ còn là niềm tin người tổ chức, tập hợp dân làng đoàn kết chống giặc. Cái đêm cụ kể về cuộc đời cùa Tnú cho dân làng nghe bên ngọn lửa xà nu bập bùng vừa đầm ấm, vừa trang nghiêm, lại vừa có gì linh thiêng như kể về một huyền thoại…
b. Tnú: Người con ưu tú cua buồn làng đã ra đi đánh giặc (giải phóng quân) để trả thù cho quê hương và cho bản thân mình. Nét tính cách chủ yếu là quyết liệt, mạnh mẽ, rất đặc trưng cho sự kiên cường bất khuất của con người Tây Nguyên sống giữa núi rừng hùng vĩ. Căm thù thì như lửa cháy ngùn ngụt (hai con mắt như hai cục than đỏ, tay bóp nát trái vả lúc nào không biết), trả thù thì dứt khoát, lạnh lùng, trừng phạt đích đáng kẻ đã tra tấn mình (bóp chết kẻ thù bằng chính hai bàn tay cụt). Cuộc đời và vẻ đẹp riêng của nhân vật như được kết tụ lại trong hai bàn tay: bàn tay hận thù và bàn tay trả thù. Đó là hình ảnh “bàn tay Tnú” độc đáo và đầy ấn tượng của Nguyền Trung Thành.
c. Dít: Cô gái trẻ giàu nghị lực, có bản lĩnh đã trưởng thành mau chóng trong phong trào chống Mĩ để trở thành người lãnh đạo cao nhất của dân làng Xô Man: bí thư chi bộ và chính trị viên xã hội. Nét tính cách nổi bật là gan dạ (giặc bắn uy hiếp tinh thần, áo quần rách tả tơi mà vẫn bình thản như không) và kiên quyết rắn rỏi (kiểm tra giấy phép cùa Tnú rất kĩ) nhưng vẫn là người phụ nữ giàu tình cám, có giới tính (cảm thấy bùi ngùi khi Tnú lại phải đi ngay).
2.3. Kết bài
– Khẳng định giá trị của tác phẩm.
3. Bài văn mẫu
Đề bài: Phân tích tình yêu nước của các nhân vật cụ Mết, Tnú, Dít trong truyện ngắn Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành
Gợi ý làm bài
3.1. Bài văn mẫu số 1
Về các tác phẩm Đất nước đứng lên và Rừng xà nu, sách Văn học 12, tập Một, đã nhận định rằng: “Có thể coi đây là những bản anh hùng ca về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên, là bức tranh chân thực sinh động về hai cuộc chiến tranh nhân dân chống Pháp và chống Mĩ”. Tác giả Nguyễn Trung Thành (Nguyên Ngọc) thật sự đã khắc họa được những nhân vật anh hùng gắn bó thành một tập thể anh hùng vừa mang dấu ấn của thời đại, vừa đậm đà dáng nét Tây Nguyên. Ta hãy phân tích vẻ đẹp của hình tượng các nhân vật nổi bật lên trong bối ành hùng vĩ của Rừng xà nu: Tnú, cụ Mết, Dít.
Cụ Mết tiêu biểu cho truyền thống của làng Xô-man. Lịch sử chiến đấu của làng, qua lời kể của cụ Mết, thấm sâu vào tim óc các thế hệ. Cụ là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, là pho sử sống của làng.
Tấm lòng cụ Mết đối với cách mạng trước sau như một. Cụ đã từng nói: “Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn”. Trong những năm đen tối, cụ cùng dân làng Xô-man, từ thanh niên, ông già bà già, đến lũ trẻ đi nuôi và gác cho cán bộ: năm năm chưa hề có một cán bộ bị giặc bắt hay giết trong rừng làng này.
Cụ Mết là linh hồn của làng Xô-man. Chính cụ đã lãnh đạo dân làng đồng khởi. Hình ảnh ông cụ mắt sáng và xếch ngược, ngực căng như một cây xà nu lớn, cất tiếng nói vang vang như một mệnh lệnh thôi thúc họ vùng lên tiêu diệt kẻ thù… thật rực rỡ như trong một trang sử thi anh hùng. “Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên !”…Từ ngày ấy, làng Xô-man trở thành làng chiến đấu. Đó là phần đóng góp không nhỏ của cụ Mết vào công
Tnú được tác giả khắc họa bằng những nét tính cách độc đáo, giàu chất sử thi. Trước hết Tnú rất gắn bó với cách mạng. Từ nhỏ Tnú đã từng nuôi giấu cán bộ và hoàn thành xuất sấc công tác giao liên. Khi bị giặc bắt, Tnú dũng cảm chịu đựng những đòn tra tấn của giặc. Sau khi vượt ngục, anh cùng cụ Mết tiếp tục lãnh đạo dân làng Xô-man mài giáo, mài rựa chiến đấu chống kẻ thù.
Tnú tha thiết thương yêu bản làng. Sau ba năm chiến đấu trở về làng, anh nhớ rõ từng hàng cây, từng con đường, từng dòng suối, bồi hồi xúc động khi nghe tiếng chày chuyên cần, rộn rã của những người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xa xưa, của Mai, của Dít, từ ngày lọt lòng anh đã nghe tiếng chày ấy rồi. Anh yêu thương vợ con tha thiết. Chứng kiến cảnh kẻ thù man rợ dùng chày sắt đập chết mẹ con Mai, nỗi đau thương của Tnú dâng lên tột đỉnh. Anh lao vào lũ giặc với mội tiếng thét dữ dội và anh dang hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai. Càng đau thương, Tnú càng căm thù giặc. Vợ con bị giết, lòng căm hận biến đôi mắt Tnú thành hai cục lửa lớn. Khi bị giặc bắt, mười đầu ngón tay Tnú bị đốt cháy, anh không kêu lên một tiếng nào (…) Răng anh đã cắt nát môi anh rồi.
Yêu thương, căm thù biến thành hành động. Tnú thét lên một tiếng… Chính nỗi đau xé lòng của Tnú đã khiến cho anh và đồng bào anh dứt khoát đứng lên tiêu diệt cả một tiểu đội giặc hung ác. Riêng Tnú ra đi lực lượng để quyết tiêu diệt mọi kẻ thù tàn ác để bảo vệ bản làng, giải phóng quê hương. Chính trong thực tế chiến đấu mà nhân vật vươn lên nhận thức đó, hiểu biết sâu sắc về kẻ thù và nâng lòng căm thù cá nhân lên thành căm thù chung của cả dân tộc.
Dít là nhân vật tiêu biểu cho những cô gái Tây Nguyên thời chống Mĩ, trưởng thành từ những đau thương và quật khởi của dân làng. Trong thời gian dân làng Xô-man chuẩn bị chiến đấu, rồi bị địch bao vây, cụ Mết và Tnú dẫn đám thanh niên vào rừng. Chỉ có con Dít nhỏ, lanh lẹn, cứ sẩm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết, Tnú và thanh niên. Khi bị giặc bắt, Dít bị chúng bắn dọa, đạn chỉ sượt qua tai, sém lóc, cày đầy quanh hai chân nhỏ… đôi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc bình thản…
Ngày Mai bị giặc đánh chết và Tnú ra đi, trong khi mọi người, cả cụ già, đều khóc vì cái chết của Mai và Dít vẫn lầm lì, không nói gì cả, mắt ráo hoảnh. Tất cả chi tiết trên thể hiện tính cách kiên cường, sức chịu đựng phi phường của Dít, biết dồn nén đau thương để nung nấu lòng căm thù. Như những người con đã khuất của làng Xô-man, Dít căm thù trên cơ sở nhận thức rõ bản chất của kẻ thù, để quyết tâm chiến đâu tiêu diệt chúng.
Dít rất giàu tình cảm thương yêu. Khi Tnú về thăm làng, Dít đã là bí thư chi bộ vừa là chính trị viên xã đội. Như ngày nào, đôi mắt Dít vẫn mở to, bình thản, trong suốt khi gặp lại Tnú. Dù trong lòng rất vui mừng, Dít vẫn thực hiện trách nhiệm kiểm tra giấy về phép của anh. Rồi từ chỗ gọi Tnú là đồng chí, Dít chuyển sang gọi là anh, xưng em thật tự nhiên, như người em gái nhỏ của Mai và Tnú ngày xưa và tỏ bày tỏ tình thân thiết: “Sao anh về có một đêm thôi? (…). Bọn em miệng đứa nào cũng nhắc anh mãi”.
Nghệ thuật miêu tả nhân vật của Nguyễn Trung Thành mang những nét độc đáo đượm khí vị Tây Nguyên anh hùng. Nếu rừng xà nu tượng trưng cho các thế hệ dân tộc Tây Nguyên kiên cường, thì các nhân vật cụ Mết, Tnú, Dít, bé Heng là hình ảnh những lớp cây xà nu đại diện cho các thế hệ nối tiếp nhau dân làng Xô-man, được khắc họa thật sinh động. Qua Rừng xà nu, ta hiểu biết và mến yêu thêm đất nước và con người Tây Nguyên. Họ đã đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp chiến đâu chung để giải phóng dân tộc.
3.2. Bài văn mẫu số 2
Nguyễn Trung Thành tên thật là Nguyễn Văn Báu sinh ngày 5/9/1932, quê ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Nguyễn Trung Thành tham gia cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta. Trong cả hai cuộc kháng chiến, Nguyễn Trung Thành gắn bó thân thiết với chiến trường Tây Nguyên. Ông gần gũi, hiểu biết cuộc sống và tinh thần quật cường, bất khuất, yêu tự do, quý cách mạng của nhân dân các dân tộc ít người trên mảnh đất này của Tổ quốc. Đó là nguyên nhân quan trọng đưa đến sự thành công của tiểu thuyết đầu tay “Đất nước đứng lên” (viết trong thời kì kháng chiến chống Pháp) và đặc biệt đó là sự thành công rất lớn của Nguyễn Trung Thành trong truyện ngắn Rừng xà nu (viết trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước – 1965).
Rừng xà nu là một truyện ngắn nhưng có giá trị như một cuốn tiểu thuyết lớn. Rừng xà nu được coi là một bản anh hùng ca của đồng bào dân tộc Tây Nguyên nói riêng và của dân tộc ta nói chung trong thời đại kháng chiên chống Mĩ cứu nước. Truyện đã xây dựng nổi bật hình tượng những nhân vật đẹp và mỗi nhân vật đều có ý nghĩa biểu tượng riêng như nhân vật cụ Mết, Tnú, Dít.
Cụ Mết là biểu tượng cho sức mạnh tinh thần và vật chất có tính truyền thống và cội nguồn của miền núi Tây Nguyên và của các dân tộc Tây Nguyên. Linh hồn của cuộc chiến đấu là nhân vật người Đảng – cán bộ Quyết – nhưng người tổ chức và điều hành, người cổ động và góp phần quan trọng để dẫn dắt là cụ Mết. Cụ Mết là đại diện của quần chúng, là gạch nối giữa Đảng và đồng bào dân tộc. Hình ảnh cụ Mết trong đoạn cuối thể hiện rất rõ vị trí của con người này: “Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên! tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phủi lấv một cầy dao, một cây mác, một cây dụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông. Đốt lửa lên!”.
Tnú là một nhân vật anh hùng, người con quang vinh của làng Xô Man, dân tộc Strá đã được Nguyễn Trung Thành khắc họa bằng những đường nét độc đáo, giàu chất sử thi. Tnú là nhân vật tiêu biểu cho số phận và con đường đi lên của các dân tộc Tây Nguyên. Cuộc đời của Tnú là một cuộc đời đầy đau khổ, đầy bất hạnh, mang đậm bi kịch nhưng Tnú đã từng bước đứng lên, đi đến với lí tưởng cách mạng và trở thành một nhân vật anh hùng cũng giống như cuộc đời, số phận đầy đau khổ, cay đắng, tủi hờn, với biết bao hi sinh mất mát của dân làng Xô Man nói riêng và của đồng bào dân tộc Tây Nguyên nói chung, như ngày nào đạn đại bác của giặc cũng bắn phá rừng xà nu, thằng Dục khát máu đã “treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng”, “giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu xúng”, tra tấn đánh đập mẹ con Mai cho đến chết… Thế nhưng dân làng Xô Man nói riêng và đồng bào dân tộc Tây Nguyên nói chung vẫn không hề gục ngã, không hề khuất phục kẻ thù, vẫn từng bước đi lên dưới ánh sáng của lí tưởng cách mạng. Chính vì vậy ta còn có thể nói: nhân vật Tnú là nhân vật tiêu biểu cho số phận và con đường đi lên của các dân tộc Tây Nguyên. Tnú là một con người biết vượt lên mọi đau đớn và bi kịch cá nhân để sống, từng bước đi đến với cách mạng và trở thành một nhân vật anh hùng. Tnú mồ côi cha mẹ từ nhỏ, lớn lên nhờ sự cưu mang của dân làng Xô Man, Tnú phải chứng kiến cảnh vợ con bị giặc đánh đập cho đến chết, bị bọn giặc bắt và tra tấn dã man, nhưng Tnú vẫn vượt qua những bi kịch đó để từng bước đi lên cùng cách mạng. Tnú đến với cách mạng từ lúc còn nhỏ, khi Tnú cùng với Mai đi làm liên lạc cho anh Quyết (người Đảng). Tuy còn nhỏ, nhưng Tnú đã là một đứa trè gan lì, lanh lợi. Khi làm liên lạc cho anh Quyết từ xã về huyện, Tnú không bao giờ đi đường mòn “ giặc vây các ngả đường, nó leo lên một cây cao nhìn quanh một lượt rồi xé rừng mà đi, lọt tất củ các vòng vây. Qua sông, nó không thích chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên trên mặt nước, cỡi lên thác băng băng như một con cá kình”. Có lần Tnú bị bọn giặc bắt, tra tấn dã man, chúng hỏi Tnú: “Cộng sản ở đâu”, Tnú đã hiên ngang chỉ tay vào bụng mình và dõng dạc nói với kẻ thù rằng: “Cộng sản ở đây nè”. Tính cách hiên ngang, anh hùng đó của Tnú được phát huy cao độ khi Tnú trưởng thành. Lúc lao ra cứu mẹ con Mai, Tnú đã bị bọn giặc bắt, chúng đã dùng giẻ tẩm nhựa xà nu quấn lên đầu ngón tay của Tnú rồi châm lửa đốt, mười ngón tay của Tnú đã trở thành mười ngọn đuốc, nhưng “Tnú nhắm mắt lại, rồi mở mắt ra, trừng trừng”, “Tnú không thèm, không thèm kêu van”. Sau đó, mỗi ngón tay của Tnú chỉ còn lại hai đốt, nhưng Tnú vẫn xung phong “đi lực lượng” để trả thù cho quê hương và gia đình. Tnú là một con người giàu lòng yêu thương. Tnú là đứa con chung của dân làng Xô Man, nên Tnú yêu thương tất cả dân làng. Điều mà gợi cho Tnú nhớ nhất về làng là tiếng giã gạo của quê hương. Khi trở về làng, Tnú “nhận ra tiếng chài giã gạo của làng anh ” và “bây giờ anh chợt hiểu ra rằng hình như cái mà anh nhớ nhất ở làng, nỗi nhớ day dứt lòng anh suốt ba năm nay chính là tiếng chày đó, tiếng chày chuyên cần, rộn rã của những người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xa xưa, của Mai, của Dít, từ ngày lọt lòng anh đã nghe tiếng chày ấy rồi”. Hơn nữa, Tnú còn là một người rất mực yêu thương vợ con. Vì quá yêu vợ thương con nên Tnú không thể chịu nổi khi nhìn cảnh vợ, con bị bọn giặc đánh đập một cách tàn nhẫn. Bất chấp nguy hiểm, bằng sức mạnh của lòng yêu thương căm thù, Tnú đã hét lên một tiếng dữ đội, nhảy xô vào giữa bọn lính và quật 3 gã tên lính đang cầm thanh sắt đánh mẹ con Mai, rồi ôm mẹ con Mai vào lòng.
Dít xuất hiện không nhiều trong câu chuyện nhưng lại hiện thân và là sự tiếp nối của Mai. Ở Dít, nổi bật lên là một tình cảm trong sáng, sâu sắc nhưng lặng lẽ và kín đáo. Tính nguyên tắc có phần cứng nhắc của một cán bộ chính trị ở tuổi mới lớn (khi Dít hỏi giấy phép của Tnú) ta có thể thông cảm, nhưng đằng sau thái độ lạnh lùng, ngôn ngữ có vẻ gay gắt (“không có giấy, trốn về thì không được, ủy ban phải bắt thôi”) là những tình cảm thầm kín ẩn trong cái nhìn rất sâu với Tnú bằng mội đôi mắt mở to, bình thản, trong suốt. Và sau nữa, ở cuối câu chuyện là lúc tiễn đưa: “Ba người (Tnú, cụ Mết và Dít) đứng ở đấy nhìn ra xa. Đến hút tầm mắt cũng không gì khác ngoài những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời”. Biết bao nhiêu tình cảm được thể hiện trong cái “ nhìn ra xa” ấy.
———-LOP12.COM———–