A. Sơ đồ tóm tắt gợi ý
B. Dàn bài chi tiết
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân
- Sinh ngày: 10-07-1910
- Quê quán: Hà Nội.
- Là con của một gia đình công chức.
- Thời niên thiếu ông được đi nhiều nơi, tham gia chống người Pháp, từng làm thư kí nhà máy đèn.
- Năm 1930, ông bắt đầu viết văn làm báo. Năm 1937, ông chuyên tâm viết văn.
- Những tác phẩm tiêu biểu: Vang bóng một thời, Những chuyến đi,…
- Giới thiệu tác phẩm Người lái đò sông Đà
- Người lái đò sông Đà là một áng văn trong tùy bút sông Đà (1960).
- Tác phẩm là thành quả của nhà văn trong chuyến ông đi tới Tây Bắc tìm kiếm chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây bắc đặc biệt là chất vàng mười đã qua thử lửa ở tâm hồn con người lao động chiến đấu trên miền sông núi Tây Bắc hùng vĩ và thơ mộng.
- Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà văn sau cách mạng tháng Tám.
2. Thân bài
- Vị trí đoạn trích và bố cục của đoạn trích
- Phần giữa của tác phẩm Người lái đò Sông Đà.
- Tiêu biểu cho tư tưởng và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám 1945.
- Bố cục đoạn trích: chia làm hai phần
- Phần một: khắc nổi tính cách “hung bạo” của con sông Đà và ngợi ca phẩm chất trí dũng, tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò.
- Phần hai: miêu tả vẻ đẹp trữ tình của sông Đà, qua đó thể hiện lòng yêu thiên nhiên đất nước của nhà văn.
- Hình tượng “nhân vật” sông Đà
- Khái quát hình tượng sông Đà
- Nhân vật sông Đà = tâm hồn nhà văn + sông Đà
- Sông Đà mang hai tính cách hung bạo và trữ tình.
- Hình tượng con sông Đà hùng vĩ và hung bạo
- Con sông Đà hùng vĩ đến dữ dội
- “Cảnh bờ sông dựng vách thành” chẹt lấy dòng sông hẹp.
- Con sông dữ dội, đá bờ sông “dựng vách thành” và “lúc đúng ngọ mới có mặt trời” diễn tả được độ cao và cái lạnh lẽo, âm u của những khúc sông có đá dựng thành vách.
- Chỗ “vách đá…như một cái yết hầu” ⇒ khắc họa sự hiểm trở bằng thủ pháp so sánh.
- Cái xoáy nước: nhà văn dùng một thứ văn “cheo leo” “trên cái mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạt đàn”.
- Con sông Đà hung bạo
- Con sông Đà như một loài thuỷ quái khổng lồ khôn ngoan, nham hiểm, hung ác, sẵn sàng chặn đánh, tiêu diệt con người:
- Đầy mưu mô: khi ẩn nấp mai phục, đánh du kích, khi quay vòng trở lại, khi xông vào đánh tới tấp,…⇒ Nhà văn quan sát thật tinh xác và phát huy sức mạnh điêu khắc của ngôn từ nghệ thuật mà truyền sự sống cho những hòn đá vô hồn trên sông.
- Bằng so sánh và nhân hóa con sông càng ghê gớm và độc ác với “cái hút nước” lúc thở, lúc kêu, lúc sặc, ặc ặc lên.
- Đá sông Đà như tên lính thủy hung tợn, trông ngỗ ngáo, nhăn nhúm…với những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm, sẵn sàng giao chiến.
- Tiếng sóng thác là tiếng thét của thiên nhiên bừng bừng phấn khích mạnh mẽ và man dại “nó rống lên … da cháy bùng bùng”.
- Sông Đà “thành ra diện mạo và tâm địa của một thứ kẻ thù số một” sẵn sàng cướp đi mạng sống con người, có tâm địa ác độc như dì ghẻ. ⇒ Nguyễn Tuân đã nhân cách hóa con sông, như một sinh thể dữ dằn, gào thét với các âm thanh ghê sợ: oán trách, van xin, khiêu khích, chế nhạo, rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn…
- Con sông Đà hùng vĩ đến dữ dội
- Tính cách trữ tình của nhân vật sông Đà
- Liên tưởng bất ngờ kì thú. Dòng sông như mái tóc của người đàn bà kiều diễm.
- Con sông được nhìn qua mây mùa xuân, nắng mùa thu để rồi cảm nhận sắc nước thai đổi theo mùa: xuân xanh ngọc bích, thu thì lừ lừ chín đỏ…
- Hình ảnh dịu dàng trong sáng, gợi cảm đầy chất thơ.
- Hình tượng người lái đò sông Đà
- Người lái đò trí dũng – người anh hùng
- Đây là cuộc chiến không cân sức:
- Sông Đà dữ dội và hiểm độc: trùng trùng lớp lớp dàn trận bủa vây; hợp sức nhiều thế lực: sóng, nước, đá, gió…
- Con người: bé nhỏ, vũ khí chỉ là chiếc cán chèo trên con đò đơn độc.
- Kết quả trận chiến: con người chiến thắng sức mạnh thần thánh của tự nhiên.
- Con người cưỡi lên thác ghềnh, xé toang hết lớp này đến lớp kia của trùng vi thạch trận; đè sấn được sóng gió, nắm chặt cái bờm sóng mà thuần phục sự hung hãn của dòng sông.
- Những thằng đá tướng phải lộ sự tiu nghỉu, thất vọng qua bộ mặt xanh lè.
- Ngòi bút Nguyễn Tuân như một máy quay phim ghi lại những trường đoạn hồi hộp, gay cấn, căng thẳng của cuộc chiến giữa con người và thiên nhiên này.
- Người lái đò – con người tài hoa nghệ sĩ
- Xử lí tình huống nguy hiểm một cách tài hoa chính xác, thông minh, táo bạo và tài tử đến kì diệu.
- Ông lái đò “cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ”.
- Ông nhớ mặt bọn đá tướng, quân đá nên táo bạo “rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến lên”.
- Ông rất tài tình và rất nghệ thuật khi lèo lái con thuyền.
- Sau khi vượt thác ông lai ung dung “đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam, bàn tán về cá anh vũ”. Chẳng ai thèm bàn thêm một lời nào về cuộc chiến đấu.
- Nghệ thuật
- Lối ví von độc đáo, bất ngờ, chính xác.
- Chi tiết chân thực và hóm hỉnh.
- Cách viết phóng túng, ngôn ngữ điêu luyện.
- Sự hiểu biết khoa học cặn kẽ, sức tưởng tượng phong phú, cảm xúc sâu lắng. Đặc biệt là lòng yêu thương và tự hào về con người và đất nước.
3. Kết bài
- Khái quát lại nội dung và nghệ thuật của đoạn trích Người lái đò sông Đà
- Gợi mở vấn đề.
C. Bài văn mẫu
Đề bài: Phân tích tác phẩm Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
Gợi ý làm bài:
Nguyễn Tuân là một nhà tuỳ bút lớn. Sự nghiệp sáng tác của ông phong phú và đạt được sự cân bằng giữa hai thời kì lịch sử trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945. Qua cái mốc ấy, tư tưởng và phong cách của ông tất nhiên có những biến đổi nhất định. Nhưng dù biến đổi thế nào, vẫn trên một căn bản thống nhất của một cái tôi rất Nguyễn Tuân: tài hoa, uyên bác, thích cảm giác mạnh, suốt đời say mê đi tìm và diễn tả cái đẹp. Người lái đò Sông Đà rút trong tập tuỳ bút Sông Đà – một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, tuỳ bút Nguyễn Tuân ngày càng giàu thêm chất kí. Nghĩa là tư liệu rất phong phú, bề bộn, nhất là tư liệu về địa lí, lịch sử, dân tộc học. Nhưng dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, những tư liệu ấy trở thành hình tượng sống động, thành những sinh thể, những nhân vật có linh hồn. Vì vậy bài tuỳ bút không chỉ có một nhân vật mà hai nhân vật : người lái đò và con sông Đà.
Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác, mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản đối lập với nhau – như tác giả nói – “hung bạo và trữ tình”. Lúc trở mặt hung bạo, nó cứ như là “kẻ thù số một” của con người. Nhưng lúc trữ tình thì lại đầy chất thơ, rất đỗi dịu dàng, thân thiết, giống như một người tình, một “cố nhân” gặp thì mừng vui, xa thì nhớ nhung, lưu luyến. Hai nét tính cách này đã khơi đúng vào cảm hứng nghệ thuật của Nguyễn Tuân – một cây bút vốn luôn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc mới lạ, nồng nàn, say đắm. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã viết rất hay về đèo cao, dốc thẳm, về gió, về bão, về thác nước dữ dội, nếu không phải là về vẻ đẹp tuyệt vời của cảnh, của người, của viên ngọc trai đáy biển, của bầu trời trong trên đỉnh núi Mèo, về hoa thuỷ tiên nở đúng đêm giao thừa, về sắc đẹp đổ quán xiêu đình, nghiêng thành nghiêng nước của nàng Kiều,… Về tính cách hung bạo của con sông Đà thì từ xa xưa ông cha ta đã diễn tả bằng biểu tượng Sơn Tinh – Thuỷ Tinh: “Núi cao sông hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”. Nguyễn Tuân thì không thể dùng lối huyền thoại như thế, ông phải dựng lên những bức tranh chân thực về những cảnh tượng hùng vĩ và dữ dội của con sông Đà khiến người đọc cũng phải rùng mình sởn gáy như đứng trước cảnh thực. Ông đã tung ra biết bao chữ nghĩa đắt giá, biết bao thủ pháp có sức diễn tả mãnh liệt để quyết một phen thi tài với Tạo hoá. Chẳng hạn, ông dùng thủ pháp liên tưởng, so sánh để diễn tả đoạn sông bị chẹt giữa hai vách đá dựng thành cao vút “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
Và đây nữa, ông tả cái hút nước ghê gớm “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu. Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn […]. Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”.
—–Để tham khảo nội dung đầy đủ của tài liệu, các em vui lòng tải về máy hoặc xem trực tuyến—–
Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà thực sự trở thành một loài thuỷ quái khổng lồ. Tiếng gầm gào của nó qua những con thác dữ, từ xa nghe đã dễ sợ: “tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”. Khi đến gần, tiếng nó bỗng “rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Con thuỷ quái không chỉ hung hãn. Nổ còn hết sức xảo quyệt. Trong cuộc vật lộn với ông lái đò, nó đã trổ ra đủ mưu ma chước quỷ để lừa người ta vào thế trận đã bày sẵn và hướng người ta vào cửa tử. Chỗ ngoặt sông thì đánh phục kích. Dụ được vào sâu thì đánh khuýp vu hồi. Giáp lá cà thì giở đủ ngón hiểm ác: đòn âm, đòn dương, đá trái, thúc gối, túm thắt lưng, lật nửa người, bóp chặt hạ bộ,… Vừa đánh vừa hò la vang trời dậy đất để áp đảo tinh thần đối phương,… Nhưng vượt qua được con thác dữ thì sông nước lại trở nên rất đỗi êm ả thanh bình. Nguyễn Tuân gọi thế là tính cách trữ tình của con sông Đà. Sông Đà lúc này lại như một tiên nữ giáng trần. Nó “tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo”. Đẹp biết bao khi được ngắm nhìn những làn mây mùa xuân bay trên sông Đà. Nước sông Đà cũng thay đổi theo mùa: mùa xuân là dòng xanh ngọc bích, mùa thu thì lừ lừ chín đỏ như da mặt người say rượu…
Cảm hứng dạt dào, nhà tuỳ bút cũng muốn trở thành thi sĩ. Ông thấy “lai láng thêm cái lòng muốn đề thơ vào sông nước”. Từ những chạm khắc gân guốc, bạo khoẻ, từ những màu sắc gây ấn tượng dữ dằn, Nguyễn Tuân chuyển sang những đường nét thanh thoát, dịu dàng thơ mộng. Ọuả thật nhiều khi ông đã đạt tới khả năng gợi tả của ngôn ngữ thơ, nghĩa là nói được những điều khó nói bằng văn xuôi: ấy là cái mà ông gọi là “màu nắng tháng ba Đường thi Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu” – thoáng hiện lên trên sóng nước sông Đà; ấy là cái bâng khuâng ngẩn ngơ của dòng nước lững lờ trôi xuôi như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Có một cái gì tựa như nỗi thương nhớ mênh mang mơ hồ của thi sĩ Tản Đà gửi “một người tình nhân chưa quen biết” – “Dải sông Đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”.
Nói chung qua cảm nhận của Nguyễn Tuân, chất thơ của phong cảnh sông Đà thường đậm đà màu sắc cổ điển: “Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Có thể gọi đấy là những dòng thơ văn xuôi của nhà tuỳ bút.
Trên đây là bài văn mẫu Phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân. Ngoài ra, các em có thể tham khảo thêm:
—–LOP12.COM—–