1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý
2. Dàn bài chi tiết
a. Mở bài:
– “Người lái đò sông Đà” là một tùy bút rất đặc sắc của Nguyễn Tuân rút từ tập Sông Đà.
– Hình ảnh con sông Đà với hai đặc tính nổi bật là hung bạo và trữ tình được tác giả khắc họa đậm nét trong tùy bút. Nổi bật lên là vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà.
b. Thân bài:
* Vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của con sông Đà:
– Thác ghềnh lúc này chỉ còn lại trong nỗi nhớ. “Thuyền tôi trôi trên sông Đà” – câu văn mở đầu đoạn hoàn toàn là thanh bằng gợi cảm giác lâng lâng, mơ màng; ý lặng tờ nhắc lại trùng điệp tạo chất thơ.
– Thiên nhiên hài hòa mang vẻ trong trẻo nguyên sơ, kỳ thú: Cỏ gianh đồi núi đang ra những búp non, đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương.
– So sánh bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa mở ra những liên tưởng về sự bát ngát, lãng mạn, hư hư thực thực của dòng sông.
– Người với cảnh có sự tương giao, hư thực đan xen: Tiếng còi, con hươu ngộ ngẩng đầu nhìn và hỏi ông khách sông Đà. Cảnh làm cho vị tình nhân non nước sông Đà xúc động trong thực và mơ.
* Nghệ thuật của ngòi bút lãng mạn tài hoa, tinh tế. Nhà văn hiến cho độc giả hình ảnh sống động, ấn tượng sâu sắc:
– Lấy động tả tĩnh: Cá quẫy đủ khiến ta giật mình.
– Cái tĩnh hàm chứa sự bất ngờ bởi sự biến hóa liên tiếp: thuyền thả trôi, con hươu thơ ngộ vểnh tai, áng cỏ sương, tiếng còi sương, đàn cá dầm xanh quẫy vọt. Cảnh và vật đều ở trạng thái động, không chịu ép mình và đều mang hơi thở vận động của cuộc sống nhiều chiều
* Nhà văn đã trải lòng mình với dòng sông, hóa thân vào nó để lắng nghe nhịp sống cuộc đời mới, để nhớ, để thương cho dòng sông, cho quê hương đất nước:
– Thưởng ngoạn vẻ đẹp sông Đà,lòng ông dậy lên cảm giác liên tưởng về lịch sử, về tình cảm đối với cố nhân: nhắc tới đời Lí đời Trần.
– Trước vẻ đẹp hoang dại nhà văn suy nghĩ về về tiếng còi tàu, cuộc sống hiện đại.
– Trải lòng, hóa thân vào dòng sông trong đắm đuối của tình non sông đất nước: Nhớ thương hòn đá thác, lắng nghe giọng nói, trôi những con đò mình nở.
c. Kết bài:
– Qua đoạn trích thấy cảnh vật và con người gắn quyện với nhau chặt chẽ; thấy những đặc sắc của văn Nguyễn Tuân. Đọc “Sông Đà” người đọc càng thêm quý trọng tài năng và tấm lòng của con người suốt đời đi tìm cái đẹp, làm giàu có đời sống tinh thần của tất cả độc giả chúng ta.
3. Bài văn mẫu
Đề bài: Viết bài văn cảm nhận về vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của dòng sông Đà trong tác phẩm Người lái đò sông Đà.
Gợi ý làm bài:
3.1. Bài văn mẫu số 1
Nguyễn Tuân là “suốt đời đi tìm cái đẹp”. Những tác phẩm của ông là những trang viết sống động về con người và thiên nhiên với cảm hứng ngợi ca. “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng thẩm mĩ đó của nhà văn. Dưới ngòi bút của ông, sông Đà hiện lên không chỉ hung bạo như một “loài thủy quái nham hiểm và độc dữ” mà còn dịu dàng và say đắm như một mỹ nhân Tây Bắc.
“Người lái đò sông Đà” được sáng tác trong chuyến đi thực tế của nhà văn lên vùng núi Tây Bắc. Tác phẩm được sáng tác trong thời kì xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Đặc biệt là trong chuyến đi vào năm 1958, Nguyễn Tuân được sống hòa mình với thiên nhiên và con người Tây Bắc. Điều này đã trở thành nguồn cảm hứng lớn để ông sáng tác.
Phần đầu của đoạn trích, tác giả chủ yếu miêu tả sự hung bạo, hùng vĩ, hiểm nguy của một dòng sông lắm thác nhiều ghềnh. Đó là sự dữ dội của cảnh đá dựng bờ sông, cảnh ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, cảnh những hút nước rùng rợn; cảnh thác đá gào thét; dòng sông với biết bao cửa tử cửa sinh… Đến cuối đoạn trích tác giả chủ yếu bàn về vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà.
Tác giả ngắm nhìn sông Đà ở nhiều thời gian, nhiều không gian khác nhau. Với tình cảm trìu mến thiết tha, nhà văn đã phát hiện được một cách tinh tế màu sắc của dòng sông biến đổi theo từng mùa. Xuân về, Đà giang xanh ngọc bích, tức là màu xanh rất đẹp, vừa trong xanh lại vừa óng ánh, chứ không xanh như màu xanh canh hến. Khi thu sang, nước Sông Đà một vẻ đẹp riêng.
Tác giả đã dành những đoạn văn hay nhất tả cảnh vật ven sông Đà để tôn thêm tính trữ tình của dòng sông, nhà văn sử dụng nhiều hình ảnh trong sáng gợi cảm và đầy chất thơ. Nhịp điệu câu văn lúc thì hối hả, mau lẹ do cách ngắt câu và diễn đạt theo lối điệp: “Bờ Đông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà” để diễn tả niềm sung sướng đang trào dâng trong lòng tác giả, lúc thì chậm rãi, như dãi ra để diễn tả cái vắng lặng rất nên thơ của con sông này: “Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tinh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Hình ảnh một bà tiên sứ, một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa có sức khơi gợi sâu xa, khắc họa được vẻ đẹp hoang sơ, tồn tại như vĩnh hằng của thiên nhiên. Với cách liên tưởng và ví von ấy, dường như Sông Đà còn có vẻ đẹp của một con sông bền bỉ chạy qua bao tháng năm lịch sử, mang dấu tích văn hóa ngàn xưa của dân tộc.
Nguyễn Tuân còn đặc biệt ấn tượng sâu sắc khi đi qua sông Đà bằng thuyền vì mặt sông ở những quãng sông này “lặng tờ”, gợi không khí cổ kính tĩnh lặng mang tính huyền thoại. Hai bên bờ sông lại hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích vì có nhiều hình ảnh lạ: “đàn hươu đang ngốn búp cỏ gianh”, “những tiếng cá đập nước làm đàn hươu nai biến mất”, mặt sông cá nhảy tung lên mặt nước “như bạc rơi thoi” làm cho dòng sông vừa đẹp vừa giàu.
Với đôi mắt chan chứa, yêu thương trìu mến tự hào, Nguyễn Tuân đã phác họa thiên nhiên sông Đà đẹp lộng lẫy hư ảo khiến nhà văn ví dòng sông lúc thì như một cố nhân, lúc lại đắm say như một tình nhân trong thơ Tản Đà ở gần thì thương, đi xa thì nhớ, gặp lại thì vui như nối lại chiêm bao đứt quãng, như “gặp lại nắng giòn tan sau kì mưa dầm” có cảm giác đằm đằm, ấm ấm rất hạnh phúc. Tài hoa của Nguyễn Tuân đã truyền đến cho người đọc bao yêu thương trìu mến để sông Đà mãi sống trong lòng người đọc.
Thành công xuất sắc của tùy bút “Người lái đò sông Đà” đó là bức tranh thiên nhiên rất thực hòa quyện với cảm hứng mãnh liệt và niềm đam mê của Nguyễn Tuân. Những đặc sắc nghệ thuật với rất nhiều biện pháp tu từ và kho ngôn ngữ phong phú ngùn ngụt chất liệu sức sống khiến dòng sông Đà của thiên nhiên vĩnh viễn trở thành dòng sông nghệ thuật.
3.2. Bài văn mẫu số 2
Nguyễn Tuân là một con người hết mực tài hoa, uyên bác. Dù chỉ viết văn nhưng ông lại có sự am hiểu nhiều môn nghệ thuật khác: hội họa, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh… Biết vận dụng con mắt nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật khác để tăng cường khả năng quan sát, biểu hiện thế giới của nghệ thuật ngôn từ. Và “Người lái đò Sông Đà” là một tác phẩm đỉnh cao, thể hiện sự tài hoa trong việc sử dụng ngôn từ, cũng như những quan sát tinh tế của Nguyễn Tuân.
Hình ảnh con sông Đà được nhìn qua lăng kính tâm hồn nghệ sĩ với nhiều vẻ đẹp khác nhau mang lại ấn tượng độc đáo. Nguyễn Tuân cảm nhận vẻ đẹp của sông Đà ở nhiều góc độ tầm nhìn khác nhau, có lúc ông quan sát con sông từ trên cao xuống tức là lúc đi máy bay trên sông Đà, lúc thì tầm nhìn của ông lại gần hơn khi ông đi thuyền trực tiếp trên con sông. Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, sông Đà thật “lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chuộc lại bản tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”.
Từ trên tàu bay nhìn xuống, Nguyễn Tuân thấy “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình. Đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc, bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”. Điệp từ “tuôn dài” cùng nhịp văn mềm mại như du như ngân đã gợi ra vẻ êm đềm lững lờ thướt tha của sông. Phép so sáng dòng sông như một “áng tóc trữ tình” là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Phép so sánh giàu chất thơ, chất họa này chẳng những phô ra vẻ dịu dang, duyên dáng kiêu sa, kiều diễm của sông Đà mà còn bộ lộ chất phong tình, lãng mạn của người nghệ sĩ. Qua phép so sánh, sông Đà mang dáng vẻ của thiếu nữ, một nữ nhân xuân sắc đang buông hờ mái tóc làm duyên, làm dáng giữa cánh rừng hoa, hoa gạo và vẻ bồng bềnh mây khói. Bao nhiêu vẻ đẹp thơ mộng, quyến rũ của đất trời đã ùa về thực dậy trong câu văn Nguyễn Tuân. Hình ảnh so sáng của Nguyễn Tuân gợi ta nhớ đế dòng sông trữ tình, diễm lệ à bóng dáng của những dòng sông ấy đã in sâu trong những trang văn, trang thơ. Đó là dòng sông Hương trong nét vẽ của Hoàng Phủ Ngọc Tường như “người con gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng duyên dáng”. Đó là “con sông duyên dáng như áng tóc huyền dưới chân núi Dục Thúy” trong ngòi bút thơ Nguyễn Trãi. Mê dắm vẻ đẹp kiều diễm của sông Đà, Nguyễn Tuân đã phát hiện ra mĩ nhân sông Đà luôn muốn làm đẹp với mình, sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa, mỗi mùa một sắc. Mùa xuân nước sông xanh màu xanh ngọc bích, mùa thu thì lừ lừ chín đỏ. Chưa bao giờ sông Đà có màu đen xấu xí như cách thực dân Pháp đã từng nói về nó. Chỉ bằng vài nét phác họa, chấm phá, thiên nhiên Tây Bắc mà linh hồn của sông Đà hiện lên như bức họa nên thơ quyễn rũ.
Với Nguyễn Tuân, đi rừng lâu này gặp lại thấy con sông Đà đằm đằm ấm ấm như một “cố nhân”. Gương mặt cố nhân sông Đà tươi sáng rực rỡ lóe lên màu nắng tháng ba Đường: “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Gặp lại cố nhân, người nghệ sĩ không giấu được niềm hân hoan, háo hức: “Chao ôi, trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dần, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Chỉ bằng vài nét chấm phá mà diện mạo của cố nhân bỗng hiện lên sống động, tâm trạng, cảm xúc của người nghệ sĩ cũng chan chứa, tràn khắp câu văn.
Không chỉ vậy, vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được Nguyễn Tuân miêu tả qua màu sắc của nước sông: “Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Nguyễn Tuân giống như một người họa sĩ, đang kiên nhẫn ngắm nhìn sự thay đổi từ dòng nước sông Đà để vẽ nên tác phẩm nghệ thuật của mình. Cách miêu tả dòng nước sông Đà của nhà văn đầy sáng tạo. Vào mùa xuân, nước sông mang màu “xanh ngọc bích” – vừa có sắc xanh lại vừa có ánh xanh lung linh, lấp lánh tràn ngập khắp không gian khiến sông Đà bỗng trở thành một khối ngọc bích khổng lồ. Đến mùa thu thì nước sông Đà màu đỏ giống như “da mặt một người bầm đi vì rượu bữa” gợi cho ta cảm giác nước sông Đà đậm phù sa đem màu mỡ đến cho bao cánh đồng phì nhiêu trù phú gọi bao yêu thương tự hào. Nhưng nước sông Đà không có màu đen như “thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ” – câu văn không chỉ nói về màu nước sông mà còn kín đáo gửi gắm tấm lòng tự yêu nước của nhà văn.
Từ không gian bao quát – trên cao nhìn xuống, Nguyễn Tuân đưa người đọc ngắm nhìn sông Đà ở không gian cụ thể – nhìn gần trực diện. Tác giả ví con sông giống như “một cố nhân” – người bạn cũ, từng rất thân thiết đã lâu không gặp, nay được gặp lại cảm thấy vui mừng khôn xiết. Để rồi, khi bắt gặp ánh nắng, nhà văn cảm nhận được vẻ đẹp mang đậm dấu ấn cổ điển của Đường thi: “Yên ba tam nguyệt há dương châu”. Đặc biệt là những câu văn diễn tả được niềm vui của tác giả khi gặp lại sông Đà: “Bờ sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Cách so sánh độc đáo cùng với điệp ngữ “sông Đà” bộc lộ niềm vui khôn xiết – có cái hạnh phúc nào bằng sau những ngày mưa dầm được nhìn thấy ánh nắng ấm áo, có cái hạnh phúc nào bằng được mơ lại giấc mơ đẹp đứt quãng. Niềm hạnh phúc khi bắt gặp sông Đà cũng giống như vậy. Và dòng sông thì vẫn đang chờ đợi người bạn tri kỷ đi xa trở về.
Vẻ đẹp hung bạo, dữ tợn đen xen cùng thơ mộng, trữ tình đã làm cho Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông ấy với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, một tình yêu thiên nhiên đất nước sâu nặng. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu, tự hào về một dòng sông, một ngọn thác, một dòng chảy đã giúp Nguyễn Tuân tạo nên những trang văn đẹp hiếm có qua ngôn từ uyên bác và những liên tưởng thú vị.
Nhiều năm tháng qua đi nhưng bạn đọc chưa bao giờ quên phong cách sáng tác “ngông” độc đáo của Nguyễn Tuân cùng tùy bút và hình ảnh con sông Đà. Tác phẩm đã đóng góp không nhỏ vào nền văn học Việt Nam và được nhiều thế hệ con người đón nhận.
——LOP12.COM——