1. Sơ đồ tóm tắt gợi ý
2. Dàn bài chi tiết
a. Mở bài:
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm, chi tiết “lá ngón”.
b. Thân bài:
* Ý nghĩa:
– Là một vị thuốc cực độc, một loài cây dân gian đặc trưng cho vùng miền núi phía Bắc.
– Là hình tượng đặc biệt giúp bộc lộ những bước ngoặt cuộc đời của nhân vật chính.
* Hình ảnh lá ngón xuất hiện lần thứ nhất:
– Khi Mị bị ép trở thành con dâu gán nợ, để trả mối nợ truyền kiếp của cha mẹ, Mị muốn tự giải thoát khỏi những bi kịch mà bản thân đang phải gánh chịu. => Tự hái cho mình một nắm lá ngón, dự định quay về gặp cha mẹ lần cuối rồi quyên sinh.
– Chi tiết này cho thấy sự phản kháng mạnh mẽ trong tâm hồn Mị:
– Bản thân Mị tìm đến lá ngón ở đây lại là một biểu hiện rất rõ ràng và mạnh mẽ của lòng khao khát tự do, khao khát hạnh phúc và cuộc sống tươi đẹp.
– Sau cùng Mị vẫn từ bỏ việc tự giải thoát “Mị ném nắm lá ngón xuống đất” và quay trở lại nhà thống lý Pá Tra, đó lại là một bản lĩnh của Mị, vì lòng hiếu thảo, thương cha già, Mị lại không đành lòng chết.
– Mị chọn một cách “chết” khác, ấy là sống âm thầm lặng lẽ chịu đựng tất cả những đắng cay tủi nhục.
* Lần thứ hai hình ảnh lá ngón xuất hiện:
– “Ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”, bản thân cô cũng không còn tưởng đến việc ăn lá ngón để chết đi cho đỡ khổ nữa.
– Mị đã quen với cái khổ, Mị không còn muốn phản kháng, hay có sức lực để phản kháng.
– Hình ảnh nắm lá ngón dường như đã phai mờ trong tâm trí Mị, bởi lẽ cô cũng chẳng còn tha thiết gì nữa, đồng nghĩa với việc niềm khao khát tự do, khao khát niềm vui sống đã dần tàn lạnh trong tâm hồn Mị, như một nắm tro lạnh lẽo.
* Lần thứ ba:
– Trong đêm tình mùa xuân ấy, tiếng sáo gọi bạn tha thiết, đã khơi dậy trong lòng cô biết bao nhiêu những kỷ niệm tươi đẹp.
– Một nỗi đau khác trong lòng Mị bị cạy mở ra, cũng là nỗi đớn đau nhất cuộc đời mà Mị phải gánh chịu, Mị bị ép gả cho A Sử hai người sống với nhau mà không hề có một chút tình yêu. Ý định quyên sinh đã chết từ lâu nay lại bùng lên trong lòng Mị .
– Tâm hồn ham sống, ham hạnh phúc của Mị đã dần thức tỉnh, Mị đã lại cảm thấy đớn đau, lại muốn tự giải thoát cuộc đời mình bằng một cách nào đó.
→ Mị đã nghĩ đến lá ngón bằng một sự phẫn nộ, uất ức đến tận cùng, là sự phản kháng mạnh mẽ, hòng tự cứu bản thân khỏi cái bể khổ mà mình đã phải gánh chịu biết bao nhiêu lâu nay.
=> Đánh dấu sự sống lại của một tâm hồn vốn đã nguội lạnh, không quan tâm chuyện sống chết, từ đó mở ra cho tác phẩm cũng như nhân vật những hướng đi mới, những lối thoát và bước ngoặt mới mang tính quyết định.
c. Kết bài:
– Cảm nghĩ chung.
3. Bài văn mẫu
Đề bài: Em hãy nêu cảm nhận về hình ảnh nắm lá ngón trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài.
GỢI Ý LÀM BÀI
3.1. Bài văn mẫu số 1
Trong nền văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn trước và sau cách mạng thực sự đã xuất hiện rất nhiều những ngòi bút tài năng làm rực sáng cả nền văn học của dân tộc. Các tác phẩm gắn liền với một thời đại đau thương, khốn khổ của dân tộc, đặc biệt là nhấn mạnh vào sự bất hạnh, cùng cực của những người nông dân, trí thức nghèo khổ đương thời với vòng xoáy bi kịch cuộc đời tàn khốc. Có thể kể đến những tác phẩm nổi tiếng như Chí Phèo, Đời thừa của Nam Cao, Tắt đèn của Ngô Tất Tố, hay Vợ Nhặt của Kim Lân,… Đến với Tô Hoài, một tác giả tài năng với gia tài sáng tác đồ sộ trên nhiều thể loại, với những đối tượng độc giả khác nhau, ông cũng góp vào nền văn chương Việt Nam một số những tác phẩm phản ánh hiện thực đất nước những năm còn kháng chiến, tiêu biểu nhất ấy là tác phẩm Vợ chồng A Phủ. Một tác phẩm đã nêu lên rất số phận bất hạnh của những con người thấp cổ bé họng ở vùng núi phía Bắc, đặc biệt là thân phận đớn đau của người phụ nữ dưới ách áp bức của cả thần quyền và cường quyền. Trong đó xoay quanh cuộc đời đầy bi kịch của nhân vật Mị, nắm lá ngón đã ba lần xuất hiện trong cuộc đời cô, với những ý nghĩa đánh dấu từng bước ngoặt của cuộc đời người phụ nữ này tựa như một “nhãn tự” đặc biệt cho tác phẩm.
Có lẽ rằng bản thân chúng ta cũng đã đôi lần được nghe về thứ lá “đoạn trường” tên là lá ngón mà người dân miền núi vẫn thường truyền tai nhau về mức độ độc của chúng, khi mà chỉ cần một nắm nhỏ, con người ta có thể dễ dàng kết thúc cuộc đời mình. Đó là một vị thuốc cực độc, một loài cây dân gian đặc trưng cho vùng miền núi phía Bắc, đặc trưng cho nền văn hóa của các dân tộc nơi đây. Việc đưa hình ảnh nắm lá ngón vào tác phẩm, chưa xét đến những ý nghĩa sâu xa, mà ban đầu bản thân nó đã có tác dụng tô đậm thêm phong vị, âm hưởng núi rừng Tây Bắc cho tác phẩm, thể hiện sự hiểu biết sâu sắc và gắn bó của tác giả đối với mảnh đất này.
Trong tác phẩm nắm lá ngón đã xuất hiện đến ba lần, thông qua hành động và suy nghĩ của nhân vật Mị. Lần đầu tiên ấy là khi Mị phát hiện mình bị cướp về nhà thống lý Pá Tra, bị ép trở thành con dâu gán nợ, để trả mối nợ truyền kiếp của cha mẹ, nỗi đau khổ cùng cực khi bị ép lấy người mình không yêu, phải rời xa gia đình, từ bỏ tình yêu, đặc biệt, mất đi cuộc sống tự do khiến Mị không thể chịu nổi. Trước những đớn đau như vậy, Mị đã khóc suốt mấy tháng trời, cuối cùng cô bỏ trốn về nhà, trong lòng cô gái trẻ lúc này là sự tuyệt vọng khôn cùng, cô muốn buông bỏ tất cả, muốn kết thúc sinh mạng của mình để tự giải thoát khỏi những bi kịch mà bản thân đang phải gánh chịu. Chính vậy nên, trên đường đi khi băng qua rừng, Mị đã tự hái cho mình một nắm lá ngón, dự định quay về gặp cha mẹ lần cuối rồi quyên sinh. Điều ấy cho thấy sự phản kháng mạnh mẽ trong tâm hồn Mị, khi phải chịu cảnh sống đày đọa, thì chi bằng chết đi để tự giải thoát cho bản thân khỏi những dằn vặt cả về thể xác lẫn tinh thần, kết thúc tất cả những bi kịch khủng khiếp mà cô không đáng phải gánh chịu. Có thể rằng đây là một lối giải thoát kiểu cực đoan, giống như cái cách mà Chí Phèo đã dùng dao tự tử, thế nhưng xét thật kỹ lại, Mị làm gì có lựa chọn nào khác, khi sống mà chẳng khác nào đã chết rồi, thậm chí còn chẳng sung sướng bằng chết đi, bởi chết là hết, còn sống là còn phải chịu đựng. Tìm đến cái chết chính là sự phản kháng bị động duy nhất mà Mị có thể làm lúc bế tắc như này. Sự xuất hiện của nắm lá ngón, đã phản ánh gay gắt sự tàn bạo của chế độ phong kiến cường quyền và thần quyền tàn ác đã bức ép một cô gái lương thiện, yếu đuối như Mị phải tìm đến cái chết. Cũng đồng thời phản ánh đời sống thống khổ, đầy bi kịch và đắng cay đến tột cùng của nhân dân ta trước ngày giải phóng như việc ăn phải nắm lá ngón, rồi quằn quại đợi đến lúc kết thúc cuộc đời tối tăm. Trong khi ấy bản thân Mị tìm đến lá ngón ở đây lại là một biểu hiện rất rõ ràng và mạnh mẽ của lòng khao khát tự do, khao khát hạnh phúc và cuộc sống tươi đẹp. Cô ý thức rất rõ ràng những quyền ấy của mình, thế ngay khi gần như vĩnh viễn bị tước đi nó cô đã không còn tha thiết gì việc sống nữa, bởi không còn tự do, phải sống với kẻ mình không yêu, và một cuộc đời nô lệ thì còn khổ hơn là chết. Thế nhưng cuối cùng Mị vẫn sống, Mị vẫn từ bỏ việc tự giải thoát “Mị ném nắm lá ngón xuống đất” và quay trở lại nhà thống lý Pá Tra. Thực sự đó lại là một bản lĩnh của Mị, Mị có thể dễ dàng chết đi, thế nhưng vì lòng hiếu thảo, thương cha già, Mị lại không đành lòng chết, bởi Mị chết là hết, nhưng món nợ của cha vẫn còn đó, nó sẽ còn hành hạ cha Mị dài lâu. Chính vì vậy cô gái ấy đã chọn một cách “chết” khác, ấy là sống âm thầm lặng lẽ chịu đựng tất cả những đắng cay tủi nhục như một cỗ máy lao động biết nói, không còn thiết tha gì đến cuộc đời nữa. Mị sống không phải vì ham sống, mà căn bản chỉ là một sự tồn tại, một sự trả món nợ truyền kiếp, tận hiếu.
Ta có thể nhìn thấy sự kiên quyết và chút gì đó vụt sáng trong lòng Mị khi cô tìm đến lá ngón với ý nghĩ đã tìm ra lối thoát. Nhưng đồng thời cũng nhận ra nỗi đớn lòng của cô khi thấy rằng chưa phải lúc và lối thoát ấy một lần nữa tuột khỏi tầm tay. Nhưng rồi cơn đau nào cũng phải qua đi đi sau thời hạn định. Mị trở về, tiếp tục sống cho hết kiếp cùng mạt nhục nhã. Nhiều năm trôi qua, cha già – người thân duy nhất cũng qua đời nhưng cái thôi thúc giải thoát trong lồng ngực son nay đã tắt. Mị không còn nghĩ đến đấu tranh bởi lẽ sống hay chết đối với cô lúc này không quan trọng nữa và đương nhên “lá ngón” cũng chẳng còn lảng vảng trong tâm trí đã ngủ quên.
Đó chính là sự xuất hiện lần thứ hai của “lá ngón” vì ở lần này, “lá ngón” xuất hiện bằng cách ra đi. Lá ngón phai mờ tượng trưng cho sự ham sống đã nguội lạnh. Nỗi ám ảnh về cái chết giờ đây không còn gặm nhấm tâm hồn cho sự tự do của lý trí. Nhưng đối với Mị, đó lại là nỗi đáng sợ! “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Dần thay thế cho “phản kháng” là “chấp nhận chịu đựng”. Một cô gái với bản lĩnh tự hái thuốc độc cho mình nay buông xuôi chấp thuận. Cô buông xuôi không bởi cố chấp thuận, cổ đông thuận mà sự thả trôi kia là kết cục của cuộc tự đấu tranh trong đơn độc, dai dẳng cuối cùng kết thúc bằng sự mỏi mệt và tuyệt vọng đổ ập xuống đôi bờ vai yếu ớt. Vậy ra, “lá ngón” kia đang ngầm kêu thay tiếng đồng bào hướng về Cách mạng. Chẳng biết tự bao giờ, Mị quay cuồng vào công việc nhà Pá Tra như một cái máy và cho tới khi trâu ngựa đã về chuồng, cô vẫn còn đứng đó tiếp tục mãi không thôi. Lúc nào cũng vậy, ngồi một mình trong căn buồng tối trông ra lôc vuông trắng đục chẳng biết “của sương hay nắng”, Mị luôn đăm đắm một ánh nhìn. Ánh nhìn ấy vừa khát khao, vừa hồi tưởng. Nếu như xem lỗ vuông nơi căn phòng là vách ngăn giữa lao tù và tự do, thì ít ra mỗi khi nhìn vào đó, Mị vẫn còn chút gì khao khát sống. Còn đối với “lá ngón”, nghĩ đến nó là nghĩ đến cái chết và chỉ khi Mị muốn kết liễu đời mình thì lá ngón lại là hình ảnh mặc định đầu tiên hiện ra.
Rồi đêm nay, đêm tình mùa xuân lại kéo đến – cái đêm tình tứ lứa đôi ngọt ngào, đêm của những xúc cảm yêu thương được chuẩn bị trước bởi “những chiếc váy hoa phơi trên mỏm đá” hay đêm được tượng hình bởi tiếng sáo mê ly. Đêm hội mùa xuân vẫn đến và đi như hằng năm vẫn thế. Và năm nay, đến hẹn lại lên, đêm được chờ mong lại đến. Nó đến vẫn với diện mạo xinh tươi và bản chất ngọt ngào. Vẫn rừng xanh đó, vẫn triền núi xưa nhưng người đưa đã khác. Đêm xuân này vắng bóng má đào. Tiếng sáo cũ vẫn cứ vô tư bay đi cùng gió với mây, đi tìm người tình ngày nào lâu nay vắng bóng. Rồi như trách oán, như không muốn đi, tiếng sáo ấy cứ réo mãi bên tai người con gái như lưu luyến, tần ngần. Như một phép tiên, đôi môi tưởng chừng đã bị phong kín bởi thời gian nay mấp máy điều gì! Gì thế kia? Hỡi ôi bài hát cũ – bài hát thiết tha dạo cùng khúc nhạc rừng vàng. Hình ảnh ấy ôi thật xót xa. Người con gái làm say đắm biết bao chàng trai, bông hoa của núi rừng hùng vĩ ngày nào biến mất đi trong đêm oan nghiệt. Để giờ đây chỉ còn tiếng hát nhẩm ngày xưa. Mị đang hát, đang cố hát để kéo về những kí ức xúc cảm vàng son. Sau không biết bao ngày sống kiếp nô lệ, Mị vẫn nhớ từng khúc nhạc từng lời ca. Chứng tỏ trong cô, vàng son không khép. Quá khứ và thực tại là hai đỉnh trái chiều và sống về quá khứ giữa thực tại tài nhẫn, Mị đang khao khát vô cùng, con tim cô vẫn còn thổn thức. Kí ức kéo về tiếp theo cho Mị lòng can đảm, lòng can đảm tồn tại khiến Mị muốn sống về kí ức và cô tìm đến rượu để tiếp tục lối đi trái chiều với thời gian. Người ta uống rượu thì say, còn Mị càng uống càng tỉnh. Mị tỉnh bởi Mị nhớ lại mình ngày xưa và đem so với mình hiện tại như chợt giật mình cho những gì bấy lâu xảy ra với bản thân. Mị tỉnh bởi Mị nhớ lại những đối xử dã man của những kẻ đốn mạt ấy dành cho cô. Rồi cái ý thức cá nhân dâng lên mạnh mẽ mà một khi ý thức ấy đỉnh điểm thì Mị lại càng không thể chấp nhận nhục nhã đớn đau trong cái cảnh “sống không ra người” này đây. Sao Mị có thể?! Giải thoát! Tự do! Mị không thể tự do thể xác và… cô sẽ tự do tâm hồn, và … lá ngón một lần nữa xuất hiện.
Ai cần cho ai và ai phụ thuộc ai?! Khi Mị muốn giải thoát, Mị tìm tới lá ngón hay là khi Mị muốn chết, lá ngón lại hiện về? “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”. Càng nhớ càng buồn, càng buồn càng khổ. Thà chết đi cho xong chứ nhớ lại làm chi khi mình bất khả kháng! Như vậy, lá ngón lại lần nữa xuất hiện với tầng ý nghĩa giải thoát, giải thoát khỏi địa ngục trần gian. Địa ngục trần gian ở đây không đơn giản là nỗi đau xác thịt và linh hồn khi bị hành hạ, mà địa ngục thật sự khi phải sống trong lầm than với những hồi ức ngọt ngào cứ hiện hữu.Và “lá ngón” lại nâng tầm ý nghĩa lên một nấc nữa, đó là “sự tự ý thức”. Đánh dấu sự trở lại của ý thức sống, đánh dấu sự thức tỉnh của một tâm hồn tưởng chừng như đã “chết đi trong cõi sống”. Có lẽ lần xuất hiện này của lá ngón là quan trọng nhất, mạnh mẽ nhất. Bởi lẽ, Mị nghĩ đến lá ngón với sự cương quyết tột cùng, trạng thái phẫn nộ và ý thức rõ nhất vì giờ đây, cô không còn cái gì để hối tiếc, để luyến lưu. Tuổi xuân đầu đời – thời gian đẹp nhất – nay đã hết, cha già – nguồn yêu thương vô tận cũng không còn. Lòng Mị nay là cõi chết. Lá ngón đối với nàng không là liều thuốc độc, mà trở thành thứ phương tiện, hình thức, con đường để đi đến một bến bờ khác không còn đớn đau, để phản kháng lại cái xã hội đương thời mạt hạn.
Mị tìm đến lá ngón là tìm đến cái chết như một sự tự cứu và phản kháng. Ta bắt gặp trong văn học những cảnh ngộ bi thương tương tự: Thuý Kiều trong “Đoạn trường tân thanh” đã tự vẫn, dù không thành, để bảo quản chữ “tiết”, không chấp nhận nhơ nhuốc tấm thân, không thể tiếp tục tồn tại với xã hội bẩn thỉu; Chí Phèo, có lẽ vì là bậc nam nhân nên cái chết của Chí diễn ra có phần chủ động và tác động lớn. Vì anh tự tay đâm chết bá Kiến – tượng trưng cho việc kết thúc cuộc đời dưới đáy xã hội mục ruỗng và tự tay kết liễu đời mình – như thể làm con người đúng nghĩa, dù cái “bắt đầu” đó cũng là dấu chấm hết của anh. Cùng thuộc mô típ nhân vật mang số phận bi đát, những con người đáng quý trọng nhưng “sinh bất phùng thời”, Mị là hình ảnh của đồng bào miền cao Tây Bắc sống kiếp nô cầm trong xã hội của bọn thực dân phong kiến, cũng như đồng bào miền xuôi hay khắp mọi miền đất nước khi ánh sáng cách mạng chưa kịp soi sáng. Mị cũng có sự tự tôn của mình, nhưng để bảo vệ sự tự tôn ấy, cô đã chọn lá ngón. Và có lẽ, đó là lẽ đương nhiên đối với một cô gái đơn độc có tâm hồn quá sáng trong nhưng vị thế lại quá nhỏ nhoi, nhất là khi ánh sáng cách mạng chưa thể gọi đến Hồng Ngài xa xăm.
Xuất sắc chấm màu xanh lá ngón vào bức tranh xô bồ của thời cuộc, Tô Hoài đã đưa “lá ngón” từ chỗ độc dược ngàn đời của núi rừng, là cái chết từ thiên nhiên, nay bỗng nhiên lại là sự giải thoát. Lá ngón xuất hiện ba lần với ba tầng ý nghĩa ngày càng sâu sắc hơn, dữ dội hơn. Cái độc của lá ngón vậy ra vẫn còn thua cái độc của xã hội. Lá càng độc là đớn đau đồng bào chịu càng nhiều. Lá ngón trở thành dấu hiệu báo động cho sự khẩn thiết, cầu cứu của đồng bào miền cao đối với Cách mạng còn quá xa và cũng chính là tư tưởng nhân đạo cao đẹp mà tác giả muốn gửi gắm đến chúng ta qua hồn thiêng gió núi của đại ngàn Tây Bắc xa xăm!
3.2. Bài văn mẫu số 2
Nhắc đến đến những tác phẩm như Dế Mèn phiêu lưu ký, hẳn trong chúng ta không ai không nghĩ ngay tới một cây bút tài ba, lão làng trong nghề văn ấy là Tô Hoài. Ai yêu Tô Hoài cũng biết, ông dành nhiều tình cảm cho con người lắm, vì thế mỗi trang văn của ông luôn thấm đượm một trái tim nhân hậu, một hơi thở nồng nàn của những bài học, ý nghĩa cuộc sống. Và chắc hẳn, ta không thể không nhớ tới câu truyện ngắn trên Tây Bắc ấy là vợ chồng A Phủ. Tô Hoài đã dành ngòi bút của mình để nảy lên những tiếng kêu nhân đạo nhất, và đặc tả điều đó, ta còn ấn tượng mãi với hình tượng nắm lá ngón trong câu truyện.
Người ta vẫn nói: “chi tiết là hạt bụi vàng của tác phẩm” một tác phẩm hay và xuất sắc, một nhà văn ưu tú và có phong cách xuất sắc, chắc chắn trong những câu truyện của mình, không thể nào không có được những chi tiết giàu ý nghĩa. Để mà khi tác giả có ra đi mãi mãi, khi nhắc đến chi tiết nghệ thuật là ta nghĩ ngay đến tác phẩm và ngòi bút tài hoa của họ.
Đến với vợ chồng A Phủ, ta được nghe Tô Hoài kể về số phận bấp bênh của hai số phận. Bị đày ải trong ngục tối của những hủ tục lạc hậu, những chế độ phong kiến chúa đất tay sai hà khắc và man rợ. Truyện ngắn vợ chồng A Phủ được sáng tác khi Tô Hoài có chuyến đi thăm miền Tây Bắc xa xôi, và ở đây thông qua lăng kính của mình, ông đã nêu bật được số phận của một cô gái miền sơn cước là Mị.
Nắm lá ngón là hình ảnh đã xuất hiện lặp đi lặp lại ba lần trong tác phẩm , mỗi lần mang một ý nghĩa khác nhau, nhưng đều là ẩn ý của tác giả đã nêu bật được khía cạnh tâm trạng và tính cách của Mị. Mở đầu câu truyện, ta không thể quên một cô gái với hình ảnh: “Ai ở xa về…có một cô gái. Lúc nào cũng vậy … mặt buồn rười rượi” thật là một hình ảnh u ám, đáng nhẽ con gái nhà giàu phải được hưởng một cuộc sống sung sướng, nhưng đây Mị tưởng như một thứ vật vô tri vô giác, tâm hồn nghèo nàn và héo úa đến thương tâm. Mị vốn dĩ là một cô gái xinh đẹp, tài hoa lại chăm chỉ hiền lành, nhưng những phẩm chất đáng quý ấy đã bị xã hội đương thời vùi dập, như một ngọn lửa đang bùng cháy, lại bị đè nén dưới những điều khổ cực, đau đớn cả thể xác và linh hồn. Mị còn cảm thấy chính mình không bằng “con trâu con ngựa” con trâu con ngựa còn được nhai cỏ ung dung, đây Mị không có một phút ngơi nghỉ, lại bị A Sử hành hạ, không có tình cảm, cuộc sống trôi qua là những bất hạnh, chán trường lặp đi lặp lại, một lối thoát không có hồi kết, không có điểm đến tưởng như lặp đi lặp lại.
Lá ngón lần đầu tiên xuất hiện, là lối thoát duy nhất của Mị có thể nghĩ ra được để thoát khỏi cuộc sống tối tăm và tù túng hiện tạo. Đó vừa là biểu hiện cao nhất của sự phản kháng, của thái độ không chịu sống trong tối tăm, không để đánh mất tuổi trẻ và thanh xuân; nhưng cũng là biểu hiện cao nhất của sự tuyệt vọng khi phải chọn cái chết như là con đường được sống cuối cùng. Đó chỉ là sự phản kháng bị động, cuối cùng. Chính nắm lá ngón trên tay Mị là tiếng nói đanh thép nhất tố cáo chế độ chúa đất chúa mường đã bóc lột trên sức lao động của con người. Nhưng vì thương cha, Mị lại đàn ném nắm lá ngón xuống đất mà quay trở lại kiếp “con dâu gạt nợ”, sống cuộc sống của thảo mộc vô tri chẳng thiết vui cùng nắng, xanh cùng gió.
Trong một lần xuất hiện khác, chi tiết lá ngón trong suy nghĩ Mị lại có điểm khác lạ, đó là Mị không còn nghĩ đến chuyện sẽ ăn lá ngón tự tử nữa. Tô Hoài viết: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa. Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Chi tiết này đã thể hiện sự cam chịu, chấp nhận nhẫn nhục sống kiếp sống tôi đòi trong nhà thống lí. Lâu ngày bị đè nén, sức phản kháng trong Mị dường như đang dần tê liệt.
Đến lần thứ ba xuất hiện, suy nghĩ về việc ăn nắm lá ngón xuất hiện trở lại trong tâm trí Mị vào đêm tình mùa xuân. Nghe tiếng sáo “thiết tha bổi hổi”, “bay lơ lửng ngoài kia”, Mị nhẩm thầm lời bài hát và nhận ra mình còn trẻ, mình cũng muốn đi chơi nhưng cái thực tại này chẳng cho Mị có cơ hội được đi chơi, được ra ngoài kia cảm nhận sức sống xuân mơn mởn khắp đất trời cảnh vật, hòa mình vào không khí xuân vui tươi, rộn ràng âm thanh. Nghĩ vậy, Mị lại một lần nữa muốn ăn lá ngón. Chi tiết lá ngón lúc này đã tô đậm bi kịch khổ đau cuộc đời Mị. Đồng thời chi tiết cũng ngầm khẳng định rằng ý thức về thân phận, về quyền sống, quyền tự do hạnh phúc vẫn chưa thực sự lụi tắt. Sức sống, niềm khát khao ấy vẫn đang âm ỉ trong trái tim, tâm hồn Mị mà chưa có cơ hội bùng lên giúp Mị vượt thoát thực tại.
Chi tiết nắm lá ngón nhà văn Tô Hoài xây dựng đã khắc họa một cách chân thực và sâu sắc hiện thực cuộc sống đầy tối tăm, cực khổ của nhân vật Mị. Cùng với sự cảm thông, chia sẻ với nhân vật, người đọc dường như cũng căm phẫn hơn trước sự tàn bạo của bọn chúa đất chúa mường. Những phản ứng, suy nghĩ của Mị trước sự xuất hiện của hình ảnh lá ngón đã thể hiện một đời sống nội tâm vô cùng phong phú, phức tạp và khát vọng sống, khát vọng tự do, hạnh phúc tiềm tàng, mạnh mẽ. Cùng với những chi tiết nghệ thuật khác trong tác phẩm, chi tiết nắm lá ngón đã góp phần thể hiện tài năng sáng tạo và sự tinh tế, sâu sắc của nhà văn Tô Hoài.
—–LOP12.COM—–