TRƯỜNG THPT
HÀ TRUNG
|
ĐỀ THI THỬ THPT QUỐC GIA
MÔN NGỮ VĂN
NĂM HỌC 2021-2022
Thời gian làm bài 120 phút
|
I. ĐỌC – HIỂU (3 điểm)
Đọc câu chuyện sau và trả lời câu hỏi:
NEWTON ĐÃ LÀM GÌ KHI NGHỈ HỌC VÌ ĐẠI DỊCH?
Trong một đại dịch, Isaac Newton cũng phải làm việc ở nhà, nhưng ông đã sử dụng thời gian một cách khôn ngoan.
TRONG NGUY CÓ CƠ
Năm 1665, một đợt dịch hạch vô cùng nguy hiểm đã bùng nổ tại London, nước Anh, cướp đi mạng sống của rất nhiều người. Với điều kiện khoa học bấy giờ, người ta không thể biết nguyên nhân của đại dịch này là gì. Phải 200 năm sau, chủng vi khuẩn hạch mới được xác định và mất thêm 200 năm nữa, con người mới tìm ra được vắc-xin chống lại căn bệnh này.
Thế nhưng, đối mặt với kẻ thù vô hình, người dân Anh đã tự biết thực hành một số quy tắc phòng dịch cơ bản. Người dân hạn chế ra đường để tránh lây bệnh, không tụ tập đông người, đồng thời tăng cường vệ sinh cá nhân.
THỜI GIAN VÀNG
Trường học của Newton cũng cho sinh viên nghỉ học. Các giáo sư và giảng viên cũng không lên lớp. Kinh tế và đời sống toàn London gần như đình trệ. Newton phải cách ly tại nhà để phòng lây nhiễm. Nhưng, cách ông tận dụng khoảng thời gian này đã khiến người khác không khỏi nể phục. Đây lại là khoảng thời gian vàng với một người có khả năng tự học phi thường như Newton. Chính trong khoảng thời gian này, Newton đã có nhiều nghiên cứu về Quang học, Cơ học và có những thành tựu nổi tiếng. Năm đó, Newton mới chỉ 20 tuổi và đang là sinh viên tại Trinity College, Cambridge.
Năm 1697, Newton trở lại Cambridge với vốn kiến thức phong phú trong tay. Chỉ trong vòng 6 tháng, ông đã vượt xa bạn bè đồng trang lứa và chỉ mất hai năm sau để trở thành giáo sư. Tất cả các thành tựu này ông đạt được là nhờ vào khoảng thời gian tự học khi giam mình trong phòng vì dịch bệnh.
(Nguồn: https://www.facebook.com/nguyenduchiep/posts/10156684048835448)
Câu 1 (NB): Xác định hai phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn trích.
Câu 2 (TH): Nêu nội dung chính của đoạn trích.
Câu 3 (TH): Anh/chị hiểu thế nào về cụm từ “khoảng thời gian vàng” trong câu “Đây lại là khoảng thời gian vàng với một người có khả năng tự học phi thường như Newton”?
Câu 4 (VD): Anh/ chị có đồng tình với quan điểm “TRONG NGUY CÓ CƠ” không? Vì sao?
II. LÀM VĂN
Câu 1: (VDC)
Dựa vào những nội dung trong phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) nói về sự cần thiết của việc tự học.
Câu 2: (VDC)
Cảm nhận của anh/ chị về hình tượng người lái đò sông Đà qua đoạn văn bản sau:
Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xoá cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này. Mặt sông rung rít lên như tuyếc-bin thuỷ điện nơi đáy hầm đập. Mặt sông trắng xoá càng làm bật rõ lên những hòn những tảng mới trông tưởng như nó đứng nó ngồi nó nằm tuỳ theo sở thích tự động của đá to đá bé. Nhưng hình như Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên song. Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa, vào tận tuyến giữa rồi nước sóng luồng với đánh khuỷu quật vu hồi lại Nếu lọt vào đây rồi mà cái thuyền du kích ấy vẫn chọc thủng được tuyến hai, thì nhiệm vụ của những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên, phải tiêu diệt tất cả thuyền trưởng thuỷ thủ ngay ở chân thác. Thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hớp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn bệ vệ oai phong lẫm liệt. Một hòn ấy trông nghiêng thì y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến. Một hòn khác lùi lại một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đổ vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò […]. Mặt sông trong tích tắc loà sáng lên như một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Nhưng ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch đi như cái luồng sóng đánh hồi lung, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. Tăng thêm mãi lên tiếng hỗn chiến của nước của đá thác. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái. Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật. Ông lái đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh cửa, sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Cưỡi lên thác Sông Đà, phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ. Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, băm chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thuỷ quân cửa ải nước bên bờ trái liền xô ra cảnh níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn này, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền.
(Nguyễn Tuân, Người lái đò Sông Đà, Ngữ văn 12, Tập 1, NXB Giáo dục 2008, Tr 188 – 189)
—————–HẾT—————-
ĐÁP ÁN ĐỀ THI SỐ 1
I. ĐỌC – HIỂU
Câu 1:
Phương pháp: Vận dụng những kiến thức về các phương thức biểu đạt đã học: Tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, nghị luận.
Cách giải:
Hai phương thức biểu đạt chính: Tự sự, nghị luận.
Câu 2:
Phương pháp: Đọc đoạn trích, phân tích.
Cách giải:
Nội dung của đoạn trích: Việc sử dụng thời gian hợp lý để tự học của Newton trong thời kì cách ly vì dịch bệnh.
Câu 3:
Phương pháp: Đọc kỹ, phân tích, bình luận.
Cách giải:
“Khoảng thời gian vàng” nghĩa là khoảng thời gian quý giá. Đặt cụm từ này trong câu: ““Đây lại là khoảng thời gian vàng với một người có khả năng tự học phi thường như Newton” ta có thể hiểu: Đối với những người khác đây là khoảng thời gian nhàn dỗi vì dịch bệnh đã khiến mọi hoạt động ngừng lại, nhưng đối với Newton đây lại là khoảng thời gian quý giá để ông tận dụng cho việc học tập, nghiên cứu, nâng cao bản thân mình.
Câu 4:
Phương pháp: Phân tích, lý giải, tổng hợp.
Cách giải:
– Đồng tình:
+ “Trong nguy có cơ”: Là trong những tình huống khó khăn vẫn có những cơ hội mới.
+ Cơ hội luôn tồn tại xung quanh chúng ta. Điều quan trọng chúng ta có phát hiện và tận dụng
được nó hay không. Ngay trong tình cảnh khó khăn nhất con người vẫn có thể tìm thấy những cơ hội mới để bắt đầu hoặc cải thiện, nâng cao cuộc sống.
II. LÀM VĂN
Câu 1.
Phương pháp:
– Tìm hiểu đề, xác định rõ vấn đề cần nghị luận Sự cần thiết của việc tự học.
– Phân tích, lí giải, tổng hợp.
Cách giải:
* Yêu cầu:
-Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn.
-Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
a. Nêu vấn đề: Sự cần thiết của việc tự học.
b. Bàn luận:
* Giải thích:
– Tự học là sự chủ động, tích cực, độc lập tìm hiểu, lĩnh hội tri thức và hình thành kỹ năng cho mình. Tự học là tự mình tìm hiểu nghiên cứu, thu nhặt các kiến thức tự luyện tập để có kỹ năng. Tự học có thể không cần sự hướng dẫn của người khác.
* Chứng minh sự cần thiết của việc tự học:
-Tự học giúp ta lĩnh hội tri thức một cách chủ động, toàn diện, hứng thú.
-Tự học giúp ta nhớ lâu và vận dụng những kiến thức đã học một cách hữu ích hơn trong cuộc sống.
-Tự học giúp con người trở nên năng động, sáng tạo, không ỷ lại, không phụ thuộc vào người khác. Từ đó biết tự bổ sung những khiếm khuyết của mình để tự hoàn thiện bản thân.
-Tự học là con đường ngắn nhất và duy nhất để hoàn thiện bản thân và biến ước mơ thành hiện thực.
-Dẫn chứng:
+ Trong lịch sử ta thấy có rất nhiều tấm gương thành tài nhờ nỗ lực tự học của bản thân như trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Hiền,..
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng đêm, sau 12 giờ lao động nặng nhọc Người lại tự học tiếng Pháp bằng cách học thuộc long mỗi ngày mười từ. Cứ thế Người đã thông thạo không chỉ tiếng Pháp mà còn nhiều ngoại ngữ khác như tiếng Trung Quốc, tiếng Anh. Người cũng đã từng nói “Trong cách học. phải lấy tự học làm nòng cốt “.
* Hiện trạng tự học ngày nay và giải pháp nâng cao tinh thần tự học:
-Hiện nay, hiện tượng học chay, học vẹt còn tồn tại ở một số bạn trẻ.
-Cách khắc phục:
+ Khi nghe giảng, đọc sách hay làm bài tập, cần tích cực suy nghĩ, ghi chép, sáng tạo nhằm rút ra những điều cần thiết, hữu ích cho bản thân.
+ Tự mày mò tìm hiểu hoặc có sự chỉ bảo, hướng dẫn của thầy cô giáo
+ Tự học ở trường, tự học ở nhà, tự học ngoài xã hội….
+ Người học phải trình bày ý kiến của mình đối với những vấn đề chưa rõ, chưa hiểu với người dạy để nắm chắc kiến thức. Từ việc nắm được khoa học từ sách vở người học phải biết vận dụng kiến thức đó vào thực tế đời sồng.
c. Đánh giá, mở rộng:
Câu 2.
Phương pháp:
– Xác định rõ vấn đề cần nghị luận: Cảm nhận về hình tượng người lái đò sông Đà qua đoạn văn bản.
– Biểu cảm, bình luận, phân tích, tổng hợp.
Cách giải:
Mở bài
– Giới thiệu một số nét tiêu biểu về tác giả Nguyễn Tuân: Vị trí và phong cách nghệ thuật đặc trưng của nhà văn.
-Nêu khái quát chung về tác phẩm “Người lái đò Sông Đà”: Hoàn cảnh sáng tác, vị trí, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật.
-Khái quát nội dung của đoạn trích: Cảm nhận về hình tượng người lái đò sông Đà qua đoạn văn.
Thân bài
*Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần đầu khi nói đến cuộc chiến giữa người lái đò Sông Đà với hai trùng vi thạch trận đầu tiên.
*Giới thiệu chân dung người lái đò.
-Tên gọi, lai lịch: Được gọi là người lái đò Sông Đà và người lái đò Lai Châu. Tên gọi đã ẩn chứa trong đó địa danh sinh sống, địa danh làm việc, nghề nghiệp. Người làm nghề chèo đò suốt dọc Sông Đà hơn mười năm liền. Nhân vật không có tên riêng mà gọi tên bằng địa danh sinh sống, địa danh làm việc. Tác giả muốn khẳng định rằng không chỉ có một ông lái đò phi phàm xuất chúng mà đây là một đại diện tiêu biểu cho vô số chất vàng mười đang lấp lánh tỏa sáng ở mảnh đất Tây Bắc.
-Chân dung: In đậm dấu ấn nghề nghiệp.
+ Tay ông lêu nghêu như cái sào,
+ Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng
+ Giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông.
+ Nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù.
+ Cái đầu bạc quắc thước… đặt lên thân hình gọn quánh chất sừng chất mun.
+ Ngực vú bả vai bầm lên một khoanh củ nâu – vết nghề nghiệp do đầu sào gửi lại. Đây là thứ huân chương lao động siêu hạng.
=> Bức chân dung rất trẻ tráng dù ông lái đò đã ngoài 70 tuổi và đây là thứ ngoại hình được hun đúc được dinh ra từ sông nước dữ dội, hiểm trở. Cho thấy sự gắn bó với nghề nghiệp của ông lái đò. Ông lái đò đã chèo lái, xuôi ngược trên Sông Đà hơn 100 lần, chính tay ông cầm lái khoảng hơn 60 lần. Ông đã gắn bó với nghề này hơn 10 năm trời.
* Vẻ đẹp trí dũng thể hiện qua cuộc chiến đấu với Sông Đà ở hai trùng vi đầu tiên.
– Khắc họa trong tương quan với hình ảnh sông Đà hung bạo, hùng vĩ: Nghệ thuật tương phản đã làm nổi bật một cuộc chiến không cân sức:
+ Một bên là thiên nhiên bạo liệt, hung tàn, sức mạnh vô song với sóng nước, với thạch tinh nham hiểm.
+ Một bên là con người bé nhỏ trên chiếc thuyền con én đơn độc và vũ khí trong tay chỉ là những chiếc cán chèo.
=> Cuộc chiến không cân sức nhằm tôn vinh vẻ đẹp của con người trong công cuộc trinh phục tự nhiên.
– Diễn biến cuộc vượt thác
(+) Cuộc vượt thác lần một:
+ Khái quát lại sự nguy hiểm của Sông Đà trong trùng vi thạch trận thứ nhất.
+ Vẻ đẹp người lái đò trong cuộc chiến ở trùng vi thứ nhất:
++ Khi thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới ở một tư thế hiên ngang, chủ động không hề sợ hại sẵn sàng nghênh chiến đối đầu với dòng thác dữ.
++ Ông lái đò hai tay giữ chặt mái chèo để khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình-> Sự vững vàng để đối chọi luồng nước giữ.
++ Trước đoàn quân liều mạng sóng nước xông vào (…), ông đò “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cái cuống lái, mặt méo bệch đi” nhưng vẫn kiên cường vượt qua cuộc hỗn chiến, vẫn cầm lái chỉ huy “ngắn gọn mà tỉnh táo” để phá tan trùng vi thạch trận thứ nhất.
=> Kết quả: Vậy là phá xong trùng vi thạch trận vòng thứ nhất. Nổi bật lên sự dũng cảm của ông lái đò.
(+) Cuộc vượt thác lần hai:
+ Khái quát lại sự nguy hiểm của Sông Đà trong trùng vi thạch trận thứ hai.
+ Vẻ đẹp người lái đò trong cuộc chiến ở trùng vi thứ hai:
++ Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi luôn chiến thuật.
++ Trước dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá, ông lái đò cùng chiếc thuyền cưỡi trên dòng thác như cưỡi trên lưng hổ. Ông ghì cương lái miết về phía luồng cửa sinh sau khi bám chắc luồn nước đúng.
++ Khi bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước xô ra, ông đò không hề nao núng mà tỉnh táo, linh hoạt thay đổi chiến thuật, ứng phó kịp thời “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến” để rồi “những luồng tử đã bỏ hết lại sau thuyền”.
Kết bài:
-Vẻ đẹp hình tượng người lái đò.
-Phong cách nghệ thuật độc đáo, tài hoa và uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân.
I. ĐỌC – HIỂU (4 điểm)
Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:
Ta muốn có một cuộc sống bình thường thì sẽ gặp phải những khó khăn bình thường; ta muốn có cuộc sống tốt đẹp thì sẽ gặp phải những khó khăn lớn hơn. Đây chính là sự công bằng của cuộc đời, nếu vượt qua được thì ta sẽ là người chiến thắng; nếu khoog vượt qua được thì hãy ngoan ngoãn quay về cuộc sống trước đó. Có thực hiện được ước mơ hay không, không phải dựa vào ta thông minh đên đâu mà là xem ta có mỉm cười vượt qua mọi cửa ải khó khăn hay không. Điều già đi đầu tiên chưa bao giờ là dung mạo bề ngoài, mà chính là sự lụi tàn của tinh thần xông pha không mệt mỏi.
Ta leo lên được đỉnh núi nào thì đạt được độ cao đó; ta đạt được chừng nào được quyết định bởi trước đó ta đã nỗ lực bao nhiêu; chúng ta có cuộc sống như thế nào là do trước đó chúng ta đã từng vượt qua những khó khăn, rào cản ra sao. Khi ta ngưỡng mộ tiền bạc và địa vị của người khác thì cũng nên đặt mắt mình vào những nỗ lực và cố gắng mà họ đã bỏ ra chứ không nên chỉ nhìn vào những gì mà họ đạt được.
Có nhiều người không vượt qua được những khó khăn thử thách đặt giữa thành công nên cuối cùng đành chịu cảnh “sắp thành lại bại”. Yếu tố quyết định thu hoạch nhiều hay ít, không phải do thế giới này cho ta nhiều hay ít mà chính là dũng khí và trí tuệ ta đã bỏ ra bao nhiêu trước khó khăn. Bởi vậy, ta có thể biến ước mơ thành hiện thực hay không điều quan trọng chính là khi đứng trước cơ hội, thái độ của ta là lo sợ trước sau, bão tàn thủ khuyết (*), hay là dùng sức mạnh vũ bão để chiến thắng khó khăn nơi đầu sóng, ngọn gió. Đối với người biết mỉm cười đối diện với khó khăn và luôn giữ nụ cười đến phút cuối cùng thì những gì họ đạt được là điều đương nhiên.
(Chớ vội vã dù dòng đời xô ngã, Gytaso Rinpoche, NXB Hồng Đức, 2019, trang 183 -184)
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chủ yếu của văn bản.
Câu 2: Theo anh/chị, điều gì sẽ xảy ra nếu “khi đứng trước cơ hội, thái độ của ta là lo sợ trước sau, bão tàn thủ khuyết”?
Câu 3: Theo anh/chị, “sức mạnh vũ bão để chiến thắng khó khăn nơi đầu sóng, ngọn gió” có thể là sức mạnh đến từ đâu?
Câu 4: Vì sao “khi ta ngưỡng mộ tền bạc và địa vị của người khác thì cũng nên đặt mắt mình vào những nỗ lực và cố gắng mà họ đã bỏ ra chứ không nên chỉ nhìn vào những gì họ mà họ đã đạt được”?
II. LÀM VĂN (6 điểm)
Câu 1: Dựa vào những nội dung trong phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý nghĩa của việc “mỉm cười đối diện với khó khăn”?
Câu 2: Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của sông Đà hung bạo và trữ tình trong hai đoạn văn bản sau:
“Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy. Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.
Và
“Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như đời Lí, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh núi đồi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến”.
(Trích Người lái đò Sông Đà, Nguyễn Tuân)
Từ đó, hãy nhận xét về sự thay đổi trong bút pháp nghệ thuật của Nguyễn Tuân ở hai đoạn văn bản trên?
—————–HẾT—————-
ĐÁP ÁN ĐỀ THI SỐ 2
I. ĐỌC – HIỂU
Câu 1.
Phương pháp: Vận dụng những kiến thức về các phương thức biểu đạt đã học: Tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, nghị luận.
Cách giải:
Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận.
Câu 2.
Phương pháp: Phân tích, lý giải, tổng hợp.
Cách giải:
Nếu “khi đứng trước cơ hội, thái độ của ta là lo sợ trước sau, bão tàn thủ khuyết” thì ta sẽ đánh mất cơ hội để tiến thân và sẽ không có cơ hội để thành công, không thể biến ước mơ thành hiện thực.
Câu 3.
Phương pháp: Phân tích, lý giải.
Cách giải:
“Sức mạnh vũ bão để chiến thắng khó khăn nơi đầu sóng ngọn gió” là nguồn sức mạnh đến từ dũng khí, trí tuệ của mỗi cá nhân.
Câu 4.
Phương pháp: Phân tích, lý giải, tổng hợp.
Cách giải:
“Khi ta ngưỡng mộ tiền bạc và địa vị của người khác thì cũng nên đặt mắt mình vào những nỗ lực và cố gắng mà họ đã bỏ ra chứ không nên chỉ nhìn vào những gì mà họ đã đạt được” vì:
– Để thấy được những gì họ nhận được là xứng đáng, đó không phải là thần may mắn đến với họ, mà là phần quà cho những công sức họ đã bỏ ra.
– Đồng thời thành công của họ cũng là bài học, động lực ta cũng phải cố gắng kiên trì, nỗ lực theo đuổi để đạt được thành công của chính mình. Đừng chỉ đứng một chỗ ngưỡng vọng mà hãy thay đổi để bản thân mình được như họ, thậm chí hơn họ.
II. LÀM VĂN
Câu 1. Phương pháp:
– Tìm hiểu đề, xác định rõ vấn đề cần nghị luận “Mỉm cười đối diện với khó khăn”.
– Phân tích, lí giải, tổng hợp.
Cách giải:
* Yêu cầu:
– Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn.
– Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
a. Nêu vấn đề:
Giới thiệu vấn đề: Mỉm cười đối diện với khó khăn.
b. Giải thích vấn đề:
“Mỉm cười đối diện với khó khăn” có thể được hiểu là: khi đứng trước khó khăn đừng lo lắng, sợ hãi, nản chí mà hãy coi đó như một bài học mà trong cuộc sống này chúng ta cần phải trải qua để trưởng thành. Mỉm cười, lạc quan với thất bại để rồi sau đó đứng lên và tiến bước về phía trước.
c. Bàn luận vấn đề:
– Khó khăn, thất bại là những điều mà bất cứ ai cũng sẽ gặp phải trong cuộc sống.
+ Từ trong khó khăn hãy tìm giải pháp, đừng đổ lỗi, đừng ngồi im chịu chết. Nếu có thất bại cũng đừng sợ hãi, hãy mạnh mẽ đứng lên, rút kinh nghiệm và tiếp tục chiến đấu.
+ Và chính từ những khó khăn đó mà ý chí, bản lĩnh của ta được tôi rèn, khiến ta ngày càng trưởng thành hơn, thành công cũng sẽ đến với ta dễ dàng hơn.
– Dẫn chứng: HS lấy dẫn chứng minh họa phù hợp.
– Phê phán những kẻ yếu đuối, gục ngã trước những khó khăn, thử thách của cuộc sống.
d. Tổng kết vấn đề.
Câu 2.
Mở bài:
-Giới thiệu một số nét tiêu biểu về tác giả Nguyễn Tuân: Cuộc đời, con người và phong cách nghệ thuật đặc trưng của nhà thơ.
-Nêu khái quát chung về tác phẩm “Người lái đò Sông Đà”: hoàn cảnh sáng tác, vị trí, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật.
-Khái quát nội dung của hai đoạn trích: Vẻ đẹp hung bạo và vẻ thơ mộng trữ tình của sông Đà.
Thân bài:
1. Phân tích hai đoạn trích:
* Đoạn trích thứ nhất: Vẻ đẹp hung bạo của con sông Đà được thể hiện qua đoạn mặt ghềnh Hát
*Đoạn trích thứ hai: Vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của con sông Đà.
-Tác giả dùng điểm nhìn của một du khách hải hồ du ngoại trên sông nước. Từ đây tác giả cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ, đa dạng, phong phú của Sông Đà.
-Đó là vẻ đẹp tĩnh lặng, yên ả, thanh bình như còn lưu lại dấu tích của lịch sử cha ông.
-Vẻ đẹp tươi mới, tràn trề nhựa sống, như bắt đầu một mùa nảy lộc sinh sôi.
-Đó còn là vẻ đẹp hoang sơ, cổ kính.
=> Cảnh quá đẹp cho nên nó đã giúp Sông Đà trở thành cảm hứng cho thi ca bao đời. Vẻ đẹp ấy đã cùng với sông Đà chảy qua không gian, thời gian, và đặc biệt là chảy qua cả những áng thơ ca bao đời, thơ Nguyễn Quang Bích rồi Tản Đà… để trở thành bất tử. Trong cái nhìn của thi sĩ Tản Đà, Sông Đà đã trở thành “một người tình nhân chưa quen biết”.
- Nhận xét về sự thay đổi trong bút pháp nghệ thuật của Nguyễn Tuân ở hai đoạn văn bản. – Sự thay đổi trong bút pháp nghệ thuật:
- Đánh giá:
Kết bài:
Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật.
—(Để xem đầy đủ nội dung của Đề thi số 2 vui lòng xem online hoặc đăng nhập vào Học247 để tải về máy)—
I. ĐỌC – HIỂU (3 điểm)
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Thái độ làm việc mới dẫn tới thành công chứ không phải thông minh.
Các nhà khoa học đã chứng minh: Thái độ làm việc mới là yếu tố tiên quyết dẫn tới thành công trong công việc chứ không phải là mức độ thông minh.
Nghiên cứu dẫn đầu bởi nhà tâm lí học Carol Dweck tại Đại học Stanford, người đã dành nhiều năm nghiên cứu mối liên hệ giữa thái độ và hiệu quả công việc.
Trong nghiên cứu lần này, bà đã đưa ra kết luận rằng thái độ làm việc có thể được dùng để dự đoán sự thành công, chứ khẩg phải là chỉ số IQ.
Thái độ của con người thuộc một trong hai trạng thái cốt lõi: vhận thức cố định , (fixed windset) và nhận thức phát triển (growth mind).
Đối với nhận thức cố định, bạn tin rằng bạn là ai và bạn không thể thay đổi. Do đó khi đối mặt với những thử thách mới, bạn sẽ cảm thấy rằng mọi thứ vượt quá tầm kiểm soát của bạn, từ đó dẫn tới cảm giác tuyệt vọng và bị choảng ngợp.
Những người có nhận thức phát triển lại tin rằng họ có thể cải thiện bằng sự nỗ lực. Họ làm việc hiệu quả hơn những người có nhận thức cố định ngay cả khi có chỉ số IQ thấp hơn. Họ chủ động nắm bắt thử thách, xem nó như một cơ hội để học được những thứ mới.
Người ta thường nghĩ rằng có khả năng, có sự thông minh sẽ truyền cảm hứng cho sự tự tin. Điều đó chỉ đứng đối với công việc diễn ra một cách suôn sẻ Yếu tố quyết định trong cuộc sống là cách bạn xử lý những thất bại và thách thức. Những người có nhận thức phát triển sẽ dang rộng vòng tay để chào đón sự thất bại.
Theo giáo sư Dweck, sự thành công trong cuộc đời phụ thuộc vào cách bạn đối mặt với thất bại. Vậy người có nhận thức phát triển nghĩ gì về sự thất bại ?
Bà cho biết: Sự thất bại là một dữ liệu, chúng ta đặt tên nó là thất bại và hơn nữa, nó còn nói với chúng ta rằng: “Cách làm này không được. Và tôi là người giải quyết vấn đề, do đó tôi sẽ cố gắng làm một cái gì đó khác hơn.”
(Trích Thái độ làm việc mới dẫn tới thành công chứ không phải thông minh, www.vietnamnet.vn,18/9/2015)
Câu 1: (NB) Xác định phương thức biểu đạt của văn bản.
Câu 2: (TH) Theo bài viết, đâu là yếu tố tiên quyết dẫn tới thành công?
Câu 3: (TH) Theo nhà tâm lý học Carol Dweck, thái độ nhìn nhận cuộc sống của người có nhận thức cố định và người có nhận thức phát triển khác nhau ra sao?
Câu 4: (VD) Anh/chị có đồng tình với ý kiến của Carol Dweck khi bà cho rằng: “sự thành công trong cuộc đời phụ thuộc vào cách bạn đối mặt với thất bại” hay không? Vì sao?
II. LÀM VĂN (7 điểm)
Câu 1: Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, anh (chị) hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ), trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến cho rằng: Một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của con người là thái độ khi phải đối mặt với những thử thách của cuộc sống.
Câu 2: Trình bày cảm nhận của anh/ chị về những khát vọng của người con gái trong tình yêu được thể hiện qua đoạn thơ sau:
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thể
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
(Trích Sóng – Xuân Quỳnh, Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam 2015, tr.154)
—————-HẾT—————
ĐÁP ÁN ĐỀ THI SỐ 3
I. ĐỌC – HIỂU
Câu 1
Phương pháp: Vận dụng những kiến thức về các phương thức biểu đạt đã học: Tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, nghị luận.
Cách giải:
Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận.
Câu 2
Phương pháp: Đọc, tìm ý.
Cách giải:
Theo bài viết, yếu tố tiên quyết dẫn đến thành công là thái độ làm việc chứ không phải là thông minh.
Câu 3
Phương pháp: Đọc, tìm ý, phân tích, lý giải.
Cách giải:
Theo Carol Dweck, sự khác nhau trong thái độ nhìn nhận cuộc sống của người có nhận thức cố định và nhận thức phát triển là:
– Người có nhận thức cố định tin rằng mình không thể thay đổi. Do đó khi đối mặt với những thử thách mới, họ sẽ cảm thấy rằng mọi thứ vượt quá tầm kiểm soát của bạn, từ đó dẫn tới cảm giác tuyệt vọng và bị choáng ngợp.
– Người có nhận thức phát triển lại tin rằng họ có thể cải thiện bằng sự nỗ lực. Họ làm việc hiệu quả hơn những người có nhận thức cố định ngay cả khi có chỉ số IQ thấp hơn. Họ chủ động nắm bắt thử thách, xem nó như một cơ hội để học được những thứ mới.
Câu 4
Phương pháp: Phân tích, lý giải, tổng hợp.
Cách giải:
Học sinh trình bày ý kiến của bản thân. Lý giải hợp lý. Gợi ý:
Đồng tình với quan điểm trên vì:
-Thất bại là mẹ của thành công. Trong cuộc sống, có rất ít trường hợp thành công mà không phải trải qua những thất bại.
-Khi đối mặt với thất bại, những người biết nỗ lực đứng dậy và đi tiếp, rút ra những bài học kinh nghiệm sâu sắc thì mới có thể đi đến thành công.
-Tuy nhiên, để đến được thành công còn cần có nhiều yếu tố khác nữa (kiến thức, kĩ năng, sự năng động sáng tạo…)
II. LÀM VĂN
Câu 1.
Phương pháp:
– Tìm hiểu đề, xác định rõ vấn đề cần nghị luận Một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của con người là thái độ khi phải đối mặt với những thử thách của cuộc sống.
– Phân tích, lí giải, tổng hợp. Yêu cầu:
-Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn.
-Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
a. Nêu vấn đề:
Một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của con người là thái độ khi phải đối mặt với những thử thách của cuộc sống.
b. Phân tích:
* Giải thích:
– Thái độ khi phải đối mặt với những thử thách của cuộc sống là cách nhìn nhận, đánh giá về công việc, nhiệm vụ mà con người cần phải vượt qua, chủ yếu đó là những yêu cầu ở mức độ cao, không hề đơn giản và dễ dàng.
– Có rất nhiều yếu tố để mỗi người đi tới sự thành công: kiến thức, trí tuệ, kĩ năng, sự may mắn. Tuy nhiên, thái độ tích cực có ý nghĩa quan trọng, thậm chí quyết định.
– Biểu hiện của thái độ đối với những thử thách khá phong phú: tin tưởng, lạc quan, nhìn thấy cơ hội tốt, coi đó là trải nghiệm quý giá, … Bên cạnh đó có những người hay suy nghĩ tiêu cực, bế tắc, bi quan,…
* Bàn luận:
* Liên hệ bản thân:
c. Đánh giá, mở rộng:
Câu 2. Phương pháp:
– Xác định rõ vấn đề cần nghị luận: Cảm nhận về những khát vọng của người con gái trong tình yêu được thể hiện qua đoạn thơ.
– Biểu cảm, bình luận, phân tích, tổng hợp.
Cách giải:
Mở bài
-Giới thiệu một số nét tiêu biểu về tác giả Xuân Quỳnh: Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ tiêu biểu của thơ Việt Nam hiện đại. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một người phụ nữ vừa giàu tình cảm yêu thương, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn mãnh liệt, da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường.
Thân bài
Khổ 1: “Dữ dội và dịu êm…Sóng tìm ra tận bể”
+ Bằng việc sử dụng bút pháp miêu tả với nhiều từ láy, sóng trước hết được thể hiện qua những trạng thái đối cực: dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ. Đây là những biểu hiện thường thấy của những con sóng ngoài biển khơi, lúc biển động do phong ba, sóng dữ dội, ồn ào; khi trời yên biển lặng, sóng dịu êm, lặng lẽ. Sự đối lập ấy đôi khi thật rõ ràng, có thể dự báo trước, nhưng cũng nhiều lúc thật khó đoán, thất thường và hết sức bất ngờ.
-> Mượn hình tượng sóng, người phụ nữ đang yêu trong bài thơ đang tự nhận thức về những biến động trong lòng mình, đang chân thành bộc bạch mà không hề giấu giếm những trạng thái tâm lí, tình cảm vừa phong phú vừa phức tạp của một tâm hồn đang khát khao yêu đương: lúc giận dữ, hờn ghen; khi dịu hiền, sâu lắng.
Khổ 2: “Ôi con sóng ngày xưa… Bồi hồi trong ngực trẻ”
Khổ 3, 4: “Trước muôn trùng sóng bể. Khi nào ta yêu nhau” Kết bài:
– Hình tượng sóng và em có sự đồng điệu, song hành. Nhân vật trữ tình là “em” mang dấu ấn riêng và tâm hồn, phong cách tác giả.
– Bằng sự thấu hiểu, đồng cảm của “người trong cuộc”, Xuân Quỳnh đã khám phá, thể hiện một cách chân thực và sâu sắc về thế giới tâm hồn của người con gái trong tình yêu.
—(Để xem đầy đủ nội dung của Đề thi số 3 vui lòng xem online hoặc đăng nhập vào Học247 để tải về máy)—
Trên đây là một phần trích đoạn nội dung Bộ 3 đề thi thử THPT QG môn Ngữ văn năm 2021-2022 Trường THPT Hà Trung. Để xem thêm nhiều tài liệu tham khảo hữu ích khác các em chọn chức năng xem online hoặc đăng nhập vào trang Hoc247.net để tải tài liệu về máy tính.
Các em quan tâm có thể tham khảo tài liệu cùng chuyên mục:
Hy vọng tài liệu này sẽ giúp các em học sinh ôn tập tốt và đạt thành tích cao trong học tập.
Chúc các em học tập tốt !