Câu hỏi:
Công nghiệp ô tô Việt Nam thời kỳ hội nhập ASEAN: Cần những thay đổi lớn
(1) Ngành công nghiệp ô tô Việt Nam ra đời muộn hơn so với các nước trong khu vực khoảng 30 năm. Thái Lan, Indonesia, Malaysia phát triển công nghiệp ô tô từ năm 1960, trong khi Việt Nam đến năm 1991 mới bắt đầu. Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội phát triển ngành công nghiệp ô tô giai đoạn 1991-2001, sau đó lại rơi vào những bất cập trong xây dựng chiến lược công nghiệp ô tô giai đoạn 2001- 2011, khiến khoảng cách với các nước như Thái Lan hay Indonesia không được rút ngắn. Trong tương lai chúng ta sẽ chỉ hy vọng cải thiện được vị trí so với Philipines và Malaysia.
(2) Với mục đích thu hút đầu tư và xây dựng một ngành công nghiệp ô tô theo kịp các nước trong khu vực, ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam được coi là ngành trọng điểm và luôn được ưu đãi nhất trong số các ngành công nghiệp. Sự ưu ái đặc biệt được thể hiện qua chính sách thuế ưu đãi về tỷ lệ nội địa hóa, nhập khẩu linh kiện lắp ráp và thu nhập doanh nghiệp… Thế nhưng kết quả là, giá xe sản xuất trong nước cao gấp 2 đến 3 lần so với nhiều quốc gia khác. Sở dĩ như vậy vì doanh nghiệp lắp ráp ô tô ỷ lại sự bảo hộ của Nhà nước nên đưa ra giá bán cao để thu lãi cao; lấy lý do thị trường ô tô Việt Nam có dung lượng chỉ bằng 1/10 thị trường của các nước trong khu vực để không giảm giá.
(3) Tuy đã trải qua 26 năm, nhưng ngành công nghiệp ô tô Việt Nam vẫn chưa đạt được sự tự chủ và đáp ứng nhu cầu thị trường. Ngành này mỗi năm đóng góp khoảng 3% vào GDP, trong khi tỷ lệ đóng góp trung bình của các nước trong khu vực ASEAN là 10%. Doanh số xe các loại bán ra dù bắt đầu tăng từ năm 2014 và đến nay đạt 300.000 xe/năm nhưng vẫn chưa tương xứng với quy mô sản xuất và nhu cầu thị trường. Công nghiệp ô tô Việt Nam hiện mới chỉ đáp ứng 10 xe (xe con)/1.000 dân, trong khi tỷ lệ này ở các nước ASEAN là 80- 144 xe/1.000 dân. Trong số 17 doanh nghiệp sản xuất lắp ráp ô tô của Việt Nam hiện nay, chỉ có 2 doanh nghiệp có thị phần lớn là Công ty cổ phần ô tô Trường Hải (Thaco) chiếm 41,3% và Toyota Việt Nam (chiếm 21,6%), còn các doanh nghiệp khác có quy mô nhỏ và rất nhỏ. Các doanh nghiệp FDI đa số chỉ đầu tư cho lắp ráp, không tập trung vào nội địa hóa vì đã có sẵn các cơ sở sản xuất ở ASEAN trước đó.
(4) Công nghiệp ô tô Việt Nam đang đứng trước một số vấn đề cơ bản sau: Thị trường trong nước còn nhỏ, do không có chính sách kích cầu hợp lý, cơ sở hạ tầng yếu; giá xe của Việt Nam cao hơn so với giá xe của các nước trong khu vực, do thuế và phí quá cao; công nghiệp hỗ trợ cho công nghiệp ô tô vẫn chưa phát triển, chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất, lắp ráp ô tô; áp lực cạnh tranh từ các nước trong khu vực ngày càng lớn khi lộ trình cắt giảm thuế quan hoàn tất vào năm 2018 với mức thuế suất về 0% đối với mọi loại xe ô tô nhập khẩu từ ASEAN. Bên cạnh đó, chính sách phát triển công nghiệp ô tô thiếu đồng bộ và ngắn hạn, gây khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp trong việc lập kế hoạch sản xuất dài hạn. Các chính sách “trải thảm” vẫn theo kiểu cào bằng, không ràng buộc rõ trách nhiệm doanh nghiệp về tỷ lệ nội địa hóa, đặc biệt là quá phụ thuộc vào doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp FDI là những nguyên nhân khiến ngành công nghiệp ô tô Việt Nam phát triển không như kỳ vọng.
Một số đề xuất
(5) Với hơn 90 triệu dân, trong đó 67% trong độ tuổi lao động (dân số vàng), Việt Nam hiện có một thị trường ô tô đầy tiềm năng. Nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hóa đường bộ có tốc độ tăng trưởng trên 10%/năm, trong đó vận chuyển hành khách chiếm khoảng 91,4% và hàng hóa 70,6%. Có tiềm năng lớn nhưng Việt Nam lại phải bỏ ra hàng chục tỷ USD để nhập khẩu ô tô, trong khi nhiều doanh nghiệp lớn trong nước như Thaco đã chuẩn bị sẵn các điều kiện cần thiết để đón đầu cơ hội và thách thức. Để cải thiện tình hình này, trong thời gian tới, chúng ta cần quan tâm thực hiện 2 vấn đề lớn sau:
Nâng cao vai trò của những doanh nghiệp đầu tàu và tăng cường hợp tác quốc tế
(6) Sau năm 2018, nếu không có doanh nghiệp đầu tàu với năng lực cạnh tranh đủ mạnh, Việt Nam sẽ trở thành thị trường tiêu thụ ô tô của các nước trong khu vực ASEAN, Ấn Độ… với các loại xe giá rẻ, gây ra thâm hụt nghiêm trọng cán cân thương mại; ngành công nghiệp ô tô, công nghiệp cơ khí không đạt mục tiêu đề ra, an sinh xã hội sẽ bị ảnh hưởng do người lao động mất việc làm. Cần phải khẳng định rằng, mục tiêu nhắm đến của công nghiệp ô tô Việt Nam không phải là có được một sản phẩm ô tô “Made in Vietnam” mà là tham gia chuỗi giá trị toàn cầu thông qua hợp tác với các đối tác nước ngoài tầm cỡ thế giới. Liên quan đến vấn đề này, khối ASEAN từ năm 2018 sẽ tiếp tục là thị trường màu mỡ đối với các nhà sản xuất ô tô Nhật Bản. Theo xu thế tất yếu, các doanh nghiệp Nhật Bản sẽ mở thêm các cơ sở sản xuất tại ASEAN, trong đó có Việt Nam. Một quốc gia châu Á khác cũng có ngành công nghiệp ô tô phát triển mạnh là Hàn Quốc, nhưng chưa có nhiều cơ sở sản xuất tại các nước ASEAN. Vấn đề đặt ra là, những đối tác này cũng có những mục tiêu của họ khi quyết định đầu tư mở thêm các cơ sở sản xuất ở Việt Nam. Trong đó, tiêu chí quan trọng nhất là phải có doanh nghiệp trong nước hội đủ các chỉ tiêu mạnh về kinh tế, kỹ thuật, nguồn nhân lực, nghiên cứu – phát triển và quản trị hiệu quả… để hợp tác với họ, tức là phải có một doanh nghiệp đầu tàu.
(7) Thaco với khu phức hợp công nghiệp ô tô ở Khu kinh tế mở Chu Lai có công suất 250.000 xe/năm và hệ thống phân phối 3S trải dài từ Bắc đến Nam là doanh nghiệp hội tụ đầy đủ các tiêu chí đó. Hợp tác chiến lược giữa Thaco và Mazda (hãng ô tô nổi tiếng với sự vượt trội và đa dạng về loại hình sản phẩm có sức thu hút thị trường cao) vừa qua cũng là một hướng đi mới. Trong thực tế, Hyundai, KIA và Mazda đã thâm nhập thị trường ASEAN với Việt Nam là cửa ngõ để đặt cơ sở sản xuất và xuất khẩu ra toàn khu vực.
(8) Như vậy, năm 2018, công nghiệp ô tô Việt Nam sẽ phải xoay trục, hướng về các doanh nghiệp nội địa lớn trong nước với những chính sách mới, đột phá, nhất quán của Nhà nước và hướng về hợp tác quốc tế có định hướng chiến lược.
Cần có những thay đổi chính sách ở tầm vĩ mô
(9) Đa số chính sách phát triển công nghiệp ô tô Việt Nam thời gian qua thiếu đồng bộ và thường mang tính ngắn hạn, chưa khuyến khích được các doanh nghiệp đầu tư phát triển. Đặc biệt là từ năm 2018 sẽ nảy sinh nghịch lý mới, thuế suất xe nhập khẩu nguyên chiếc là 0%, trong khi thuế nhập linh kiện, phụ kiện vẫn là 15 đến 25%. Như vậy, ô tô ngoại nhập giá rẻ sẽ ồ ạt xâm nhập thị trường trong nước, khiến xe nội địa không thể cạnh tranh được. Ngoài ra, các chính sách thu hút đầu tư nước ngoài đối với công nghiệp hỗ trợ ngành công nghiệp ô tô Việt Nam hiện nay còn khá sơ sài, chưa trở thành công cụ hữu hiệu thúc đẩy sự phát triển của ngành. Do vậy, Nhà nước cần nhanh chóng thay đổi những chính sách này để tạo điều kiện cho công nghiệp ô tô Việt Nam đứng vững và cạnh tranh tốt sau năm 2018.
(10) Điều kiện cần là Nhà nước phải thay đổi cả về chính sách vĩ mô ở cấp nhà nước và cấp quản trị doanh nghiệp để có thể nâng cao năng lực quản trị nguồn lực của ngành và doanh nghiệp theo mô hình tập trung, xuyên suốt, nhắm tới mục tiêu tạo ra một năng lực cạnh tranh mới mang tầm quốc gia, với năng suất lao động cao, chi phí thấp. Khi đó, công nghiệp ô tô Việt Nam mới tạo được sự khác biệt lớn từ sản phẩm, công nghệ, dịch vụ so với các đối thủ và làm hài lòng khách hàng, từng bước chiếm lĩnh thị trường. Việc thành lập những cụm công nghiệp ô tô với những doanh nghiệp ô tô đầu tàu như Thaco và các đối tác chiến lược nước ngoài tầm cỡ, đồng thời kết nối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa là điều kiện đủ để hội nhập thành công.
(11) Có thể nói, khe cửa để phát triển công nghiệp ô tô của Việt Nam đang rất hẹp, sẽ có nhiều doanh nghiệp không chịu nổi sức ép cạnh tranh phải rời cuộc chơi. Nhưng đây lại là cơ hội dành cho những doanh nghiệp có chiến lược khác biệt, có năng lực công nghệ, có đội ngũ nhân lực kỹ thuật mạnh và năng động, có tiềm lực tài chính, có phương thức quản trị tốt và có đối tác chiến lược tầm cỡ… tồn tại và phát triển bền vững.
(Nguồn: “Công nghiệp ô tô Việt Nam thời kỳ hội nhập ASEAN: Cần những thay đổi lớn”, Phạm Xuân Mai, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 7, năm 2017)
Nội dung chính được văn bản đề cập là gì?
A. Ô tô Việt Nam đang ngày càng phát triển
B. Việt Nam không có tương lai cho ngành công nghiệp ô tô
C. Công nghiệp ô tô ở Việt Nam tồn tại nhiều rủi ro
D. Tình hình phát triển công nghiệp ô tô ở Việt Nam và những thay đổi để phát triển
Đáp án chính xác
Trả lời:
Nội dung chính: Tình hình phát triển công nghiệp ô tô ở Việt Nam và những thay đổi để phát triển
Đáp án cần chọn là: D
====== **** mời các bạn xem câu tiếp bên dưới **** =====
- Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:Bảo tồn và phát triển nguồn gen tại Nghệ An(1) Là một trong những địa phương có đa dạng sinh học cao ở Việt Nam, với nhiều kiểu hệ sinh thái, nguồn tài nguyên sinh vật phong phú, đa dạng và đặc hữu, Nghệ An sớm nhận thấy tầm quan trọng của nguồn gen trong việc bảo tồn các giống cây trồng, vật nuôi bản địa quý hiếm, coi việc bảo tồn và lưu giữ nguồn gen là nhiệm vụ quan trọng. Đặc biệt, từ khi Đề án khung các nhiệm vụ bảo tồn nguồn gen cấp tỉnh giai đoạn 2014-2020 được UBND tỉnh Nghệ An phê duyệt đã giúp công tác này ở địa phương càng được chú trọng và đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận.(2) Để bảo tồn và phát triển nguồn gen, trong thời gian qua Sở Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nghệ An đã triển khai nhiều nhiệm vụ nghiên cứu về nguồn gen như: Bảo tồn nguồn gen vật nuôi Việt Nam; Điều tra cây con đặc sản, quý hiếm ở Nghệ An; Đa dạng sinh học đảo Mắt, đảo Ngư và biển ven bờ; Đa dạng sinh học khu Puxailaileng; Đa dạng sinh học Khu dự trữ sinh quyển Tây Nghệ An; Khảo sát, đánh giá, đề xuất hình thức đăng ký bảo hộ các sản phẩm mang địa danh của Nghệ An… Ngoài ra, các viện nghiên cứu, trường đại học đóng trên địa bàn tỉnh cũng huy động kinh phí từ các nguồn khác để triển khai nhiều đề tài khảo sát, thu thập các nguồn gen, như: Trung tâm Nghiên cứu cây ăn quả và cây công nghiệp Phủ Quỳ đã xây dựng được các tập đoàn cây ăn quả gồm: Tập đoàn cây ăn quả có múi, tập đoàn vải, nhãn, xoài, hồng, thanh long, lạc tiên… Thông qua việc thực hiện nhiệm vụ KH&CN cấp bộ, Trường Đại học Vinh đã thu thập, lưu giữ và đánh giá nguồn gen của các giống lúa nương ở các huyện miền núi của 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh… Các nhiệm vụ KH&CN đã điều tra, khảo sát và tổng hợp được số lượng khá phong phú các giống cây trồng, vật nuôi của tỉnh. Cụ thể:Về tài nguyên thực vật: Trên địa bàn tỉnh có 31 loài quý hiếm có trong sách Đỏ Việt Nam.Các kết quả điều tra, khảo sát cho thấy, Nghệ An là địa phương rất đa dạng về nguồn gen cây lúa, đậu, cây có củ, rau. Trung tâm Tài nguyên thực vật (Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam) đã thu thập được 960 nguồn gen trên địa bàn tỉnh (nhóm cây lúa có 440 mẫu giống, nhóm cây đậu có 151 mẫu giống, cây có củ có 149 mẫu giống, cây rau có 220 mẫu giống); Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Bắc Trung Bộ đã thu thập được 122 nguồn gen (cây có hạt có 110 mẫu giống, cây có củ có 12 mẫu giống); Trường Đại học Vinh đã thu thập được 79 giống (4 giống lúa và 75 giống nếp địa phương). Về cây ăn quả, Trung tâm Tài nguyên thực vật đã thu thập được 185 nguồn gen cây ăn quả trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Đây cũng là cơ sở để Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Bắc Trung Bộ thực hiện thành công đề tài “Nghiên cứu và phục hồi giống cam Xã Đoài ở vùng nguyên sản”, giúp bảo tồn và phát triển loài cam đặc sản này. Về cây dược liệu, trên địa bàn tỉnh Nghệ An đã thu thập được 962 loài cây thuốc và nấm làm thuốc, thuộc 365 chi, 183 họ của 5 ngành thực vật bậc cao có mạch khác nhau, trong đó có 769 loài mọc tự nhiên và 193 loài cây trồng làm thuốc. Hiện có 41 loài cây dược liệu mọc trong tự nhiên có giá trị cao, đã được khai thác và thương mại hóa rộng rãi. Về nguồn gen vật nuôi:Trong những năm qua, Viện Chăn nuôi đã phối hợp với nhiều đơn vị trong tỉnh, trong đó có Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN (Sở KH&CN Nghệ An), Khoa Nông lâm ngư (Trường Đại học Vinh) tiến hành điều tra, phát hiện và nghiên cứu bảo tồn kịp thời nhiều nguồn gen vật nuôi như: Trâu Thanh Chương, trâu Phủ Quỳ, trâu Na Hỷ, bò U đầu rìu, bò H’mông (bò Mèo), bò vàng Nghệ An, ngựa Mường Lống, dê cỏ Nghệ An, hươu sao, lợn Mẹo, lợn Xao Va; gà tây Kỳ Sơn, gà ác, vịt bầu Quỳ, ngỗng cỏ Nghệ An, ngan trâu Nghệ An…Về nguồn gen thủy, hải sản:Nguồn gen cá nước ngọt của Nghệ An được đánh giá là rất phong phú về thành phần loài (280 loài thuộc 14 bộ, 60 họ, 230 giống), đa dạng về chủng loại, với các nhóm: Cá nước ngọt, cá nước lợ, cá di cư từ biển vào sông và ngược lại. Thông qua điều tra, khảo sát đã xác định được 19 loài có giá trị cao gồm: Cá bống bớp, diêu hồng, lóc bông, cá lệch, cá lũ, cá mè kẽ, cá mòi, cá mú, cá ngứa, cá nhớ, cá sứt môi, cua đá, cua lông, hải sâm, ốc hương, tôm đá, tôm tít, cá mát, cá lăng.(3) Từ năm 2014 đến 2016, thực hiện Đề án khung các nhiệm vụ bảo tồn nguồn gen cấp tỉnh, Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN Nghệ An đã điều tra, thu thập, bổ sung một số nguồn gen trên địa bàn tỉnh. Cụ thể, năm 2015 qua điều tra tại các huyện Quế Phong, Quỳ Châu và Quỳ Hợp đã ghi nhận, thu mẫu và xác định vị trí phân bố được 9 loài cây thuốc quý, hiếm được ghi trong sách Đỏ Việt Nam gồm: Drynaria fortunei (Mett) – Cốt toái bổ; Stemona tuberosa Lour – Bách bộ; Dis-porosis Longifolia Craib – Hoàng tinh cách; Goniothanl Goniothanlamus Vietnamensis Ban – Bổ béo đen; Tacca Subflabellta P.P.Ling & C.T.Ting – Phá lửa (Râu hùm Việt); Fibraurea tinctoria Lour – Hoằng đằng; Smilax glabra Roxb – Thổ phục linh; Morinda officilalis Haw – Ba kích; Gynostemma – Giảo cổ lam. Đặc biệt, trong năm 2016, kết quả điều tra, khảo sát trên địa bàn 3 huyện Con Cuông, Tương Dương và Kỳ Sơn đã thu được 12 loài cây trồng bản địa và cây thuốc quý, hiếm được ghi trong sách Đỏ Việt Nam, gồm: Stephnia brachyandra Diels – Bình vôi núi cao; Celastrus hindsii Benth – Xạ đen; Ampelopsis cantoniensis (Hook et Arn) Planch – Chè dây; Polygonatum kingianum Coll. et Hemsl. 1890 – Hoàng tinh vòng; Achillea millefolium L., 1735 – Cỏ thi; Talinum paniculatum (Jacp.) Gaertn., 1791 – Thổ nhân sâm; Aristolochia lwangsiensis Chun et How ex Liang – Mã đậu linh Quảng Tây; Zingiber ottensii Valeton – Gừng tím; Stahlianthus thorelli Gagnep – Tam thất nam; Copis chinensis Franch, 1897 – Hoàng liên; Zea mays L – Ngô nếp tím; Oryza sativa L – Lúa nếp Khẩu hin.(4) Bên cạnh các nhiệm vụ thu thập, bảo tồn thì nhiều nhiệm vụ về khai thác và phát triển nguồn gen, ứng dụng công nghệ sinh học trong đánh giá di truyền nguồn gen đã được triển khai. Tiêu biểu trong số đó phải kể đến các dự án do Trung tâm Tài nguyên thực vật chủ trì thực hiện (Khai thác phát triển nguồn gen lúa đặc sản Khẩu cẩm xẳng, Khẩu cẩm ngâu Nghệ An; Khai thác và phát triển nguồn gen bí đá trái dài và mướp đắng xanh tại Nghệ An; Khai thác và phát triển nguồn gen đậu xanh hạt nhỏ tại Nam Đàn, Nghệ An…) đã góp phần bảo tồn nhiều nguồn gen cây trồng quý, giúp giữ nhiều đặc tính tốt, phù hợp với điều kiện sinh thái địa phương. Đặc biệt, một số nguồn gen đã được khai thác, sử dụng và phát triển thành sản phẩm có giá trị thương mại cao như rượu Mú từn, trà hoa vàng hòa tan và viên nang cứng trà hoa vàng… bước đầu được thị trường đón nhận.(5) Có thể nói, công tác bảo tồn, khai thác và phát triển các nguồn gen cây trồng, vật nuôi trên địa bàn tỉnh Nghệ An đã thu được những kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, so với con số về giống cây trồng, vật nuôi quý hiện có trên địa bàn, số lượng nguồn gen được lưu giữ, bảo tồn và phát triển còn rất khiêm tốn. Trong khi đó, các cây con đặc sản khác đang hàng ngày, hàng giờ bị khai thác quá mức, khiến chúng có nguy cơ tuyệt chủng cao hơn các cây con thông thường. Xa hơn nữa, nếu để mất các giống cây con đặc sản thì các giá trị tri thức, văn hóa gắn liền với các tài nguyên này cũng sẽ bị mất theo. Để khắc phục tình trạng này, trong thời gian tới, Nghệ An cần tiếp tục triển khai thực hiện công tác bảo tồn, khai thác sử dụng bền vững, có hiệu quả các nguồn gen với định hướng rõ ràng thông qua các giải pháp:Một là, ứng dụng KH&CN hiện đại kết hợp hài hòa với tri thức truyền thống trong bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen; bảo tồn và lưu giữ an toàn các nguồn gen hiện có, khai thác sử dụng bền vững, có hiệu quả nguồn gen động vật, thực vật và vi sinh vật; tìm kiếm, điều tra thu thập và đưa vào bảo tồn các nguồn gen bản địa mới được phát hiện.Hai là, đánh giá, xác định giá trị nguồn gen, mức độ đe dọa tới các giống, loài bản địa đặc hữu, quý hiếm hiện có và mới được thu thập; có các phương án bảo tồn hiệu quả nguồn gen: Xác định và giới thiệu được những nguồn gen đặc hữu, giá trị kinh tế cao vào sản xuất và đời sống; tư liệu hóa nguồn gen, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin về nguồn gen trên địa bàn tỉnh, phục vụ quản lý nhà nước và nghiên cứu khoa học, trao đổi thông tin với mạng lưới quỹ gen quốc gia; khai thác và phát triển nhanh các nguồn gen thành sản phẩm thương mại; tập trung khai thác các nguồn gen quý, có giá trị kinh tế thành các giống bổ sung vào cơ cấu giống của tỉnh, tạo ra một số sản phẩm đặc thù, chủ lực của từng địa phương phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng nội địa.Ba là, để bảo tồn, khai thác nguồn gen bản địa rất cần sự quan tâm sát sao của các cấp, ngành trong tỉnh và sự góp sức, ủng hộ của người dân, cũng như toàn xã hội. Bên cạnh đó, cần triển khai xây dựng bộ máy, hệ thống tổ chức bảo tồn nguồn gen cây trồng, vật nuôi ở địa phương để giúp tăng cường hiệu quả công tác quản lý, bảo tồn và đánh giá nguồn gen cây trồng, vật nuôi bản địa. Trên cơ sở đó, sẽ tổ chức xây dựng cơ sở dữ liệu và thông tin nguồn gen, phục vụ bảo vệ, khai thác và sử dụng nguồn gen cây trồng, vật nuôi một cách hợp lý, hiệu quả.(Nguồn: “Bảo tồn và phát triển nguồn gen tại Nghệ An”, Ngô Hoàng Linh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 7, năm 2017)Đâu là nội dung chính của bài đọc trên?
Câu hỏi:
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:Bảo tồn và phát triển nguồn gen tại Nghệ An(1) Là một trong những địa phương có đa dạng sinh học cao ở Việt Nam, với nhiều kiểu hệ sinh thái, nguồn tài nguyên sinh vật phong phú, đa dạng và đặc hữu, Nghệ An sớm nhận thấy tầm quan trọng của nguồn gen trong việc bảo tồn các giống cây trồng, vật nuôi bản địa quý hiếm, coi việc bảo tồn và lưu giữ nguồn gen là nhiệm vụ quan trọng. Đặc biệt, từ khi Đề án khung các nhiệm vụ bảo tồn nguồn gen cấp tỉnh giai đoạn 2014-2020 được UBND tỉnh Nghệ An phê duyệt đã giúp công tác này ở địa phương càng được chú trọng và đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận.(2) Để bảo tồn và phát triển nguồn gen, trong thời gian qua Sở Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Nghệ An đã triển khai nhiều nhiệm vụ nghiên cứu về nguồn gen như: Bảo tồn nguồn gen vật nuôi Việt Nam; Điều tra cây con đặc sản, quý hiếm ở Nghệ An; Đa dạng sinh học đảo Mắt, đảo Ngư và biển ven bờ; Đa dạng sinh học khu Puxailaileng; Đa dạng sinh học Khu dự trữ sinh quyển Tây Nghệ An; Khảo sát, đánh giá, đề xuất hình thức đăng ký bảo hộ các sản phẩm mang địa danh của Nghệ An… Ngoài ra, các viện nghiên cứu, trường đại học đóng trên địa bàn tỉnh cũng huy động kinh phí từ các nguồn khác để triển khai nhiều đề tài khảo sát, thu thập các nguồn gen, như: Trung tâm Nghiên cứu cây ăn quả và cây công nghiệp Phủ Quỳ đã xây dựng được các tập đoàn cây ăn quả gồm: Tập đoàn cây ăn quả có múi, tập đoàn vải, nhãn, xoài, hồng, thanh long, lạc tiên… Thông qua việc thực hiện nhiệm vụ KH&CN cấp bộ, Trường Đại học Vinh đã thu thập, lưu giữ và đánh giá nguồn gen của các giống lúa nương ở các huyện miền núi của 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh… Các nhiệm vụ KH&CN đã điều tra, khảo sát và tổng hợp được số lượng khá phong phú các giống cây trồng, vật nuôi của tỉnh. Cụ thể:Về tài nguyên thực vật: Trên địa bàn tỉnh có 31 loài quý hiếm có trong sách Đỏ Việt Nam.Các kết quả điều tra, khảo sát cho thấy, Nghệ An là địa phương rất đa dạng về nguồn gen cây lúa, đậu, cây có củ, rau. Trung tâm Tài nguyên thực vật (Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam) đã thu thập được 960 nguồn gen trên địa bàn tỉnh (nhóm cây lúa có 440 mẫu giống, nhóm cây đậu có 151 mẫu giống, cây có củ có 149 mẫu giống, cây rau có 220 mẫu giống); Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Bắc Trung Bộ đã thu thập được 122 nguồn gen (cây có hạt có 110 mẫu giống, cây có củ có 12 mẫu giống); Trường Đại học Vinh đã thu thập được 79 giống (4 giống lúa và 75 giống nếp địa phương). Về cây ăn quả, Trung tâm Tài nguyên thực vật đã thu thập được 185 nguồn gen cây ăn quả trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Đây cũng là cơ sở để Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Bắc Trung Bộ thực hiện thành công đề tài “Nghiên cứu và phục hồi giống cam Xã Đoài ở vùng nguyên sản”, giúp bảo tồn và phát triển loài cam đặc sản này. Về cây dược liệu, trên địa bàn tỉnh Nghệ An đã thu thập được 962 loài cây thuốc và nấm làm thuốc, thuộc 365 chi, 183 họ của 5 ngành thực vật bậc cao có mạch khác nhau, trong đó có 769 loài mọc tự nhiên và 193 loài cây trồng làm thuốc. Hiện có 41 loài cây dược liệu mọc trong tự nhiên có giá trị cao, đã được khai thác và thương mại hóa rộng rãi. Về nguồn gen vật nuôi:Trong những năm qua, Viện Chăn nuôi đã phối hợp với nhiều đơn vị trong tỉnh, trong đó có Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN (Sở KH&CN Nghệ An), Khoa Nông lâm ngư (Trường Đại học Vinh) tiến hành điều tra, phát hiện và nghiên cứu bảo tồn kịp thời nhiều nguồn gen vật nuôi như: Trâu Thanh Chương, trâu Phủ Quỳ, trâu Na Hỷ, bò U đầu rìu, bò H’mông (bò Mèo), bò vàng Nghệ An, ngựa Mường Lống, dê cỏ Nghệ An, hươu sao, lợn Mẹo, lợn Xao Va; gà tây Kỳ Sơn, gà ác, vịt bầu Quỳ, ngỗng cỏ Nghệ An, ngan trâu Nghệ An…Về nguồn gen thủy, hải sản:Nguồn gen cá nước ngọt của Nghệ An được đánh giá là rất phong phú về thành phần loài (280 loài thuộc 14 bộ, 60 họ, 230 giống), đa dạng về chủng loại, với các nhóm: Cá nước ngọt, cá nước lợ, cá di cư từ biển vào sông và ngược lại. Thông qua điều tra, khảo sát đã xác định được 19 loài có giá trị cao gồm: Cá bống bớp, diêu hồng, lóc bông, cá lệch, cá lũ, cá mè kẽ, cá mòi, cá mú, cá ngứa, cá nhớ, cá sứt môi, cua đá, cua lông, hải sâm, ốc hương, tôm đá, tôm tít, cá mát, cá lăng.(3) Từ năm 2014 đến 2016, thực hiện Đề án khung các nhiệm vụ bảo tồn nguồn gen cấp tỉnh, Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN Nghệ An đã điều tra, thu thập, bổ sung một số nguồn gen trên địa bàn tỉnh. Cụ thể, năm 2015 qua điều tra tại các huyện Quế Phong, Quỳ Châu và Quỳ Hợp đã ghi nhận, thu mẫu và xác định vị trí phân bố được 9 loài cây thuốc quý, hiếm được ghi trong sách Đỏ Việt Nam gồm: Drynaria fortunei (Mett) – Cốt toái bổ; Stemona tuberosa Lour – Bách bộ; Dis-porosis Longifolia Craib – Hoàng tinh cách; Goniothanl Goniothanlamus Vietnamensis Ban – Bổ béo đen; Tacca Subflabellta P.P.Ling & C.T.Ting – Phá lửa (Râu hùm Việt); Fibraurea tinctoria Lour – Hoằng đằng; Smilax glabra Roxb – Thổ phục linh; Morinda officilalis Haw – Ba kích; Gynostemma – Giảo cổ lam. Đặc biệt, trong năm 2016, kết quả điều tra, khảo sát trên địa bàn 3 huyện Con Cuông, Tương Dương và Kỳ Sơn đã thu được 12 loài cây trồng bản địa và cây thuốc quý, hiếm được ghi trong sách Đỏ Việt Nam, gồm: Stephnia brachyandra Diels – Bình vôi núi cao; Celastrus hindsii Benth – Xạ đen; Ampelopsis cantoniensis (Hook et Arn) Planch – Chè dây; Polygonatum kingianum Coll. et Hemsl. 1890 – Hoàng tinh vòng; Achillea millefolium L., 1735 – Cỏ thi; Talinum paniculatum (Jacp.) Gaertn., 1791 – Thổ nhân sâm; Aristolochia lwangsiensis Chun et How ex Liang – Mã đậu linh Quảng Tây; Zingiber ottensii Valeton – Gừng tím; Stahlianthus thorelli Gagnep – Tam thất nam; Copis chinensis Franch, 1897 – Hoàng liên; Zea mays L – Ngô nếp tím; Oryza sativa L – Lúa nếp Khẩu hin.(4) Bên cạnh các nhiệm vụ thu thập, bảo tồn thì nhiều nhiệm vụ về khai thác và phát triển nguồn gen, ứng dụng công nghệ sinh học trong đánh giá di truyền nguồn gen đã được triển khai. Tiêu biểu trong số đó phải kể đến các dự án do Trung tâm Tài nguyên thực vật chủ trì thực hiện (Khai thác phát triển nguồn gen lúa đặc sản Khẩu cẩm xẳng, Khẩu cẩm ngâu Nghệ An; Khai thác và phát triển nguồn gen bí đá trái dài và mướp đắng xanh tại Nghệ An; Khai thác và phát triển nguồn gen đậu xanh hạt nhỏ tại Nam Đàn, Nghệ An…) đã góp phần bảo tồn nhiều nguồn gen cây trồng quý, giúp giữ nhiều đặc tính tốt, phù hợp với điều kiện sinh thái địa phương. Đặc biệt, một số nguồn gen đã được khai thác, sử dụng và phát triển thành sản phẩm có giá trị thương mại cao như rượu Mú từn, trà hoa vàng hòa tan và viên nang cứng trà hoa vàng… bước đầu được thị trường đón nhận.(5) Có thể nói, công tác bảo tồn, khai thác và phát triển các nguồn gen cây trồng, vật nuôi trên địa bàn tỉnh Nghệ An đã thu được những kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, so với con số về giống cây trồng, vật nuôi quý hiện có trên địa bàn, số lượng nguồn gen được lưu giữ, bảo tồn và phát triển còn rất khiêm tốn. Trong khi đó, các cây con đặc sản khác đang hàng ngày, hàng giờ bị khai thác quá mức, khiến chúng có nguy cơ tuyệt chủng cao hơn các cây con thông thường. Xa hơn nữa, nếu để mất các giống cây con đặc sản thì các giá trị tri thức, văn hóa gắn liền với các tài nguyên này cũng sẽ bị mất theo. Để khắc phục tình trạng này, trong thời gian tới, Nghệ An cần tiếp tục triển khai thực hiện công tác bảo tồn, khai thác sử dụng bền vững, có hiệu quả các nguồn gen với định hướng rõ ràng thông qua các giải pháp:Một là, ứng dụng KH&CN hiện đại kết hợp hài hòa với tri thức truyền thống trong bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen; bảo tồn và lưu giữ an toàn các nguồn gen hiện có, khai thác sử dụng bền vững, có hiệu quả nguồn gen động vật, thực vật và vi sinh vật; tìm kiếm, điều tra thu thập và đưa vào bảo tồn các nguồn gen bản địa mới được phát hiện.Hai là, đánh giá, xác định giá trị nguồn gen, mức độ đe dọa tới các giống, loài bản địa đặc hữu, quý hiếm hiện có và mới được thu thập; có các phương án bảo tồn hiệu quả nguồn gen: Xác định và giới thiệu được những nguồn gen đặc hữu, giá trị kinh tế cao vào sản xuất và đời sống; tư liệu hóa nguồn gen, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin về nguồn gen trên địa bàn tỉnh, phục vụ quản lý nhà nước và nghiên cứu khoa học, trao đổi thông tin với mạng lưới quỹ gen quốc gia; khai thác và phát triển nhanh các nguồn gen thành sản phẩm thương mại; tập trung khai thác các nguồn gen quý, có giá trị kinh tế thành các giống bổ sung vào cơ cấu giống của tỉnh, tạo ra một số sản phẩm đặc thù, chủ lực của từng địa phương phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng nội địa.Ba là, để bảo tồn, khai thác nguồn gen bản địa rất cần sự quan tâm sát sao của các cấp, ngành trong tỉnh và sự góp sức, ủng hộ của người dân, cũng như toàn xã hội. Bên cạnh đó, cần triển khai xây dựng bộ máy, hệ thống tổ chức bảo tồn nguồn gen cây trồng, vật nuôi ở địa phương để giúp tăng cường hiệu quả công tác quản lý, bảo tồn và đánh giá nguồn gen cây trồng, vật nuôi bản địa. Trên cơ sở đó, sẽ tổ chức xây dựng cơ sở dữ liệu và thông tin nguồn gen, phục vụ bảo vệ, khai thác và sử dụng nguồn gen cây trồng, vật nuôi một cách hợp lý, hiệu quả.(Nguồn: “Bảo tồn và phát triển nguồn gen tại Nghệ An”, Ngô Hoàng Linh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 7, năm 2017)Đâu là nội dung chính của bài đọc trên?
A. Giải pháp bảo vệ nguồn gen ở Nghệ An
Đáp án chính xác
B. Lợi ích của việc bảo vệ nguồn gen ở Nghệ An
C. Đa dạng sinh học trong giới tự nhiên của Nghệ An
D. Cả ba phương án trên đều sai
Trả lời:
Bài đọc đã trình bày giải pháp bảo vệ nguồn gen ở Nghệ An.Đáp án cần chọn là: A
====== **** mời các bạn xem câu tiếp bên dưới **** =====
- Đâu là nhận xét đúng nhất về sinh vật của Nghệ An?
Câu hỏi:
Đâu là nhận xét đúng nhất về sinh vật của Nghệ An?
A. Thực vật vô cùng phong phú còn động vật đang bị đe dọa.
B. Nhiều kiểu hệ sinh thái, nguồn tài nguyên sinh vật phong phú, đa dạng và đặc hữu.
Đáp án chính xác
C. Hệ thống rừng với diện tích lớn và nguồn tài nguyên không vơi cạn
D. Rừng ngày càng thu hẹp, sinh vật thiếu đất sống và bị đe dọa tuyệt chủng
Trả lời:
Nghệ An có nhiều kiểu hệ sinh thái, nguồn tài nguyên sinh vật phong phú, đa dạng và đặc hữu.
Đáp án cần chọn là: B====== **** mời các bạn xem câu tiếp bên dưới **** =====
- Theo văn bản, để bảo tồn và phát triển nguồn gen, trong thời gian qua Sở Khoa học và Công nghệ Nghệ An không triển khai nhiệm vụ nào dưới đây?
Câu hỏi:
Theo văn bản, để bảo tồn và phát triển nguồn gen, trong thời gian qua Sở Khoa học và Công nghệ Nghệ An không triển khai nhiệm vụ nào dưới đây?
A. Bảo tồn nguồn gen vật nuôi Việt Nam
B. Điều tra cây con đặc sản, quý hiếm ở Nghệ An
C. Nhân giống động vật có nguy cơ tuyệt chủng
Đáp án chính xác
D. Đa dạng sinh học đảo Mắt, đảo Ngư và biển ven bờ
Trả lời:
Nhân giống động vật có nguy cơ tuyệt chủng không phải là nhiệm vụ triển khai của Sở Khoa học và Công nghệ Nghệ An.
Đáp án cần chọn là: C====== **** mời các bạn xem câu tiếp bên dưới **** =====
- Theo văn bản, Sở KH&CN đã điều tra, khảo sát và tổng hợp được những nguồn nào dưới đây?
Câu hỏi:
Theo văn bản, Sở KH&CN đã điều tra, khảo sát và tổng hợp được những nguồn nào dưới đây?
A. Con người, thực vật, động vật
B. Thực vật, hải sản, bò sát
C. Hải sản, động vật quý hiếm, động vật hoang dã
D. Thực vật, vật nuôi, thủy sản, hải sản
Đáp án chính xác
Trả lời:
Thực vật, vật nuôi, thủy sản, hải sản là các nguồn đã được Sở KH&CN điều tra.
Đáp án cần chọn là: D====== **** mời các bạn xem câu tiếp bên dưới **** =====
- Tài nguyên thực vật của Nghệ An có bao nhiêu loài quý hiếm có trong sách Đỏ Việt Nam?
Câu hỏi:
Tài nguyên thực vật của Nghệ An có bao nhiêu loài quý hiếm có trong sách Đỏ Việt Nam?
A. 30
B. 31
Đáp án chính xác
C. 32
D. 33
Trả lời:
Tài nguyên thực vật của Nghệ An có 31 loài quý hiếm có trong sách Đỏ Việt Nam
Đáp án cần chọn là: B====== **** mời các bạn xem câu tiếp bên dưới **** =====