Câu hỏi:
1. Ngày 20.07.1969 Neil Armstrong đặt chân lên Mặt Trăng, đánh dấu cột mốc quan trọng của nhân loại. Nhưng đằng sau đó là một cuộc đua quyết liệt giữa Mỹ và Liên Xô.
2. Công nghệ tên lửa vũ trụ hiện đại được khởi nguồn từ Viện nghiên cứu quân sự của Đức Quốc xã với giám đốc kỹ thuật Wernher von Braun khi đó tuổi đời còn rất trẻ. Đỉnh cao trong sự nghiệp của ông là việc phát triển thành công tên lửa cỡ lớn dài 14 mét có tên V2. Tháng 10/1942 V2 được phóng thành công lên tới độ cao 84,5 km (vượt qua ranh giới bầu khí quyển 80 km – theo tiêu chuẩn của NASA hiện nay), và đạt đến độ cao 174,6 km hai năm sau đó. Từ năm 1944, tên lửa này bị coi là mối nguy tiềm tàng đối với nhiều nước.
3. Cả người Nga và người Mỹ đều ý thức được sự vượt trội về công nghệ tên lửa của Đức. Khi chiến tranh kết thúc vào năm 1945, họ đã tìm mọi cách Vơ vét tất cả những gì liên quan đến tên lửa V2. Ngay đến bảo tàng của Đức ở Peeneminde cũng chỉ có bản sao của V2 để giới thiệu với công chúng.
4. Người ta không chỉ lấy đi các nguyên liệu, bản vẽ mà cả những tác giả của công nghệ tên lửa. Những chuyên gia tên lửa hàng đầu của Đức đã cùng với Wernher von Braun nhanh chóng chạy về vùng Bayern để đầu hàng quân đội Mỹ. Một số người khác, tài năng không kém, thì rơi vào tay quân Nga. Nhưng bọn họ đã nhanh chóng được thả sau khi khai báo mọi thông tin cho Sergei Pavlovich Korolev (1906-1966).
5. Sergei Pavlovich Korolev có một thời gian dài ở Đông Đức để nghiên cứu về V2, nhờ đó ông đã phát triển thành công tên lửa R1 của Liên Xô. Không lâu sau đó cuộc chạy đua phát triển tên lửa liên lục địa quân sự giữa Mỹ và Liên Xô đã nổ ra đều dựa trên nền tảng V2.
6. Bước ngoặt xảy ra khi Liên Xô Poing Sputnik I am 1957. Nó trở thành củ SỐC lớn đối với nước Mỹ. Sau đó Liên Xô tiếp tục dẫn trước: “Luna 2” thực hiện chuyến hạ cánh cứng đầu tiên lên Mặt Trăng vào năm 1959, Yuri Gagarin là người đầu tiên bay quay quanh Trái Đất vào năm 1961 trên tàu vũ trụ “Vostok 1”. Để đối chọi với “Sputnik” Mỹ tung ra dự án “Vanguard”. Tuy nhiên đây là một thất bại, trong số 12 cuộc phóng thì 9 không thành công. Các chuyên gia tên lửa của Đức không tham gia dự án này, họ được giao phát triển tên lửa quân sự Redstone trên nền so tàng V2.
7. 1961 là năm bản lề đối với hành trình chinh phục Mặt Trăng của loài người. Ngày 25.05.1961, Tổng thống Kennedy tuyên bố mục tiêu ngay trong thập niên này sẽ đưa người lên Mặt Trăng và trở về an toàn. Đây là một dự án đầy tham vọng và vô cùng tốn kém nhưng được khích lệ bởi quyết tâm không để thua Liên Xô một lần nữa.
8. Cũng trong năm đó Liên Xô đưa ra một chương trình Mặt Trăng tương tự, nhưng giữ bí mật. Chương trình chinh phục Mặt Trăng Apollo của Mỹ do Cơ quan không gian dân dụng NASA, ra đời năm 1958, chịu trách nhiệm. Wernher von Braun và đội ngũ của ông đóng một vai trò then chốt cho dù NASA thời kỳ đầu có tới 450.000 nhân sự tham gia giải quyết một khối lượng công việc khổng lồ mà thoạt đầu tưởng chừng to không thể kham nổi.
9. Von Braun có nhiệm vụ phát triển tên lửa Saturn V với chiều cao 111 mét, cho đến nay vẫn là loại tên lửa đẩy lớn nhất thế giới. Các bộ phận riêng lẻ được lắp ráp với nhau trong một nhà xưởng cao tới 160 mét ở Trung tâm Vũ trụ John F. Kennedy (KFC). Ngay trong chuyến bay thử đầu tiên vào ngày 9.11.1967 Saturn V đã thành công. Có thể nói toàn bộ chương trình tên lửa đẩy khổng lồ của Mỹ hầu như không gặp trục trặc đáng kể nào. Phải chăng von Braun và các cộng sự của ông đã gặp nhiều may mắn? Nhưng, may mắn chỉ đến với những người thực sự tài năng và có quyết tâm.
10. Trong khi đó Liên Xô vẫn lặng lẽ bí mật xúc tiến chương trình của mình. Đối thủ của Apollo khi đó là tàu vũ trụ Sojus, vẫn còn hoạt động cho tới ngày nay. Ngay trong 1 chuyến bay đầu tiên đã xảy ra một tai nạn chết người, khi hạ cánh dù không hoạt động. Để phục vụ cho các chuyến bay lên Mặt Trăng, Liên Xô dự định sử dụng loại tên lửa đẩy N1, cao 105 mét. Trong khi dự án đang được triển khai, ngành du hành vũ trụ Liên Xô đã bị một cú đánh trời giáng. Tổng công trình sư thiên tài Sergei Pavlovich Korolev qua đời vào năm 1966 trong một ca phẫu thuật bệnh tim.
11. Hai kỳ phùng địch thủ Korolev và von Braun nay đã chỉ còn lại một. Nếu như Korolev không phải rời khỏi cuộc đua vì bệnh tật và cái chết, điều gì sẽ xảy ra? Sau đó thì phía Liên Xô ngày càng bế tắc. Tất cả bốn cuộc thử tên lửa từ 1969 đến 1972 đều trục trặc, không thành công, đến đây cuộc chạy đua coi như đã bị thất bại, Liên Xô ngừng chương trình Mặt Trăng.
(Theo Xuân Hoài lược dịch, Lịch sử cuộc đua lên Mặt Trăng, Tạp chí Tia sáng, ngày 08/03/2021)
Ý nào sau đây thể hiện rõ nhất nội dung chính của bài đọc trên?
A. Cuộc chạy đua chinh phục Mặt Trăng giữa Liên Xô và Mỹ.
Đáp án chính xác
B. Vai trò của Wernher von Braun trong chương trình Apollo.
C. Neil Armstrong là người Mỹ đầu tiên đã đặt chân lên Mặt Trăng.
D. Nguyên nhân thất bại của Nga trong chiến dịch chinh phục Mặt Trăng.
Trả lời:
Nội dung chính: Cuộc chạy đua chinh phục Mặt Trăng giữa Liên Xô và Mỹ.
Đáp án cần chọn là: A
====== **** mời các bạn xem câu tiếp bên dưới **** =====
- Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:Chế tạo thành công thiết bị laze ứng dụng trong LIDAR đo nồng độ khí ô zôn dựa trên sáng chế được bảo hộ(1) Khí ô zôn cùng với khói, bụi là thành phần chính làm giảm chất lượng không khí. Đặc biệt tại các đô thị lớn, các khu công nghiệp, đây là một tác nhân chính gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người, sự sống còn của các sinh vật, hiệu ứng nhà kính và nhiều vấn đề khác. Vì thế việc xác định nồng độ, sự phân bố của ô zôn trong khí quyển là hết sức cần thiết, nhất là ở lớp khí quyển thấp.(2) Các phương tiện theo dõi hiện nay chủ yếu là bóng thám không với đầu dò ô zôn điện hóa, máy bay, vệ tinh và LIDAR. Trong đó, LIDAR là kỹ thuật đo đạc xa dùng bức xạ laze có khả năng quan trắc các đặc trưng vật lý của khí quyển theo không gian (xa tới vài chục km) và thời gian (24/7). Do vậy, để xác định nồng độ và sự phân bố của khí ô zôn, kỹ thuật đo LIDAR vi sai (DIAL) đã được sử dụng hiệu quả. Công cụ không thể thiếu của kỹ thuật này là các laze có độ đơn sắc cao, điều khiển được bước sóng. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là cần phải có một hệ laze đơn sắc có thể lựa chọn được bước sóng thích hợp theo yêu cầu. (3) Sáng chế số 10311 đề cập đến thiết kế và cấu tạo của một máy phát đơn xung laze có độ rộng phổ tới hạn dựa trên nguyên tắc tổ hợp hai hiệu ứng phản hồi phân bố năng lượng và dập tắt dao động trong buồng cộng hưởng. Điểm khác biệt trong sáng chế 10311 là sử dụng yếu tố phân chia chùm bơm bằng một gương kép làm với nhau một góc 30 0 , nhờ vậy có thể phát laze với mọi bước sóng bơm mà không cần thêm bất cứ một cơ cấu nào khác ngoại trừ việc tính toán bước sóng laze.(4) Để hiện thực hóa sáng chế thành sản phẩm có khả năng áp dụng vào đời sống, Viện Vật lý (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) đã đề xuất và được Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt thực hiện dự án “Áp dụng sáng chế máy phát laze màu phản hồi phân bố dập tắt theo văn bằng bảo hộ số 10311 ngày 23/5/2012 ứng dụng trong nghiên cứu khoa học, đời sống và kiểm soát ô nhiễm” (thuộc Chương trình phát triển tài sản trí tuệ giai đoạn 2016- 2020). Dự án được thực hiện trong 2 năm, với mục tiêu hiện thực hóa một sáng chế công nghệ cao trở thành sản phẩm có khả năng áp dụng vào thực tiễn; ứng dụng thử nghiệm sản phẩm được sản xuất theo sáng chế vào kiểm soát ô nhiễm môi trường.(5) Sau gần 2 năm thực hiện, dự án đã hoàn thành tốt các nội dung đề ra như: thiết kế các chi tiết máy của hệ đo trên cơ sở tính toán, hiệu chỉnh các kích thước phù hợp theo các thông số đưa ra trong sáng chế; thử nghiệm mô hình thiết bị trong phòng thí nghiệm; gia công các chi tiết máy; lắp ráp các chi tiết thành phần, hoàn chỉnh đồng bộ đầu phát và bộ khuếch đại; viết phần mềm điều khiển lựa chọn bước sóng và chạy thử trên hệ máy; khảo sát các thông số laze, hiệu chỉnh laze… Trên cơ sở đó, các nhà khoa học của Viện Vật lý đã chế tạo thành công hệ máy phát laze có độ đơn sắc cao (độ bán rộng phổ 5 picô mét), có thể lựa bước sóng tùy ý trong khoảng 560-610 nm, xung ngắn (độ bán rộng xung 12 picô giây), công suất xung đạt tới cỡ megaoát, có thể nhân đôi tần số (tức là chia đôi bước sóng) trong khoảng 280-305 nm ứng dụng trong quan trắc kiểm soát ô nhiễm môi trường. (6) Máy được vận hành theo nguyên lý: khi bước sóng laze bơm nằm trong vùng hấp thụ của chất màu được sử dụng làm môi trường hoạt chất, hai chùm bơm thành phần tạo thành hệ cách tử động theo nguyên lý giao thoa ánh sáng trên bề mặt môi trường hoạt chất gây nên hiệu ứng laze. Khi thay đổi hằng số cách tử bằng cách thay đổi góc tạo vân giao thoa sẽ cho phép lựa chọn bước sóng theo yêu cầu. Các lựa chọn này có thể sử dụng chương trình điều khiển trên máy tính hoặc lựa chọn bằng tay. Kết quả thử nghiệm ứng dụng hệ laze đã chế tạo để đo đạc mức độ ô nhiễm khí ô zôn tại khí quyển tầng thấp (dưới 3,5 km) ở Hà Nội cho thấy, máy hoạt động ổn định ở mức ± 5% về thăng giáng năng lượng, 0,005 ± 0,001 nm về độ rộng phổ, sai số về bước sóng đạt ± 0,05 nm với chế độ hoạt động liên tục. Đặc biệt, phần mềm điều khiển lựa chọn bước sóng được nhúng trong bộ vi điều khiển vừa điều khiển trực tiếp bằng bảng điều khiển trên mặt máy, vừa có thể kết nối với máy tính rất thuận tiện cho người sử dụng.(7) Theo đánh giá của các chuyên gia, hiệu quả khoa học của dự án là rất rõ nét, khi lần đầu tiên Việt Nam chế tạo được một thiết bị laze ứng dụng trong kiểm soát môi trường có các đặc tính đặc biệt, với giá thấp hơn nhiều so với sản phẩm cùng loại trên thị trường. Khả năng thương mại hóa của sản phẩm cao do nhu cầu sử dụng các thiết bị đo đạc, đánh giá các thông số môi trường, phục vụ công tác quan trắc và kiểm soát ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay là rất lớn. Đặc biệt, sản phẩm của dự án sử dụng phương pháp mới, áp dụng trong thực tế sẽ mang lại nhiều ưu điểm so với phương pháp truyền thống như quan trắc liên tục hoặc bất kỳ thời điểm theo yêu cầu, độ chính xác của phương pháp đo thông số môi trường cao, dễ dàng kiểm soát các yếu tố gây ra sai số của phép đo, thời gian đo ngắn…(8) Bên cạnh hiệu quả về mặt khoa học, kinh tế và môi trường, việc chế tạo thành công một thiết bị công nghệ cao dựa trên một sáng chế của người Việt đã góp phần đưa các tài sản trí tuệ đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời làm tiền đề cho việc ứng dụng các sáng chế, giải pháp hữu ích trong và ngoài nước không được bảo hộ tại Việt Nam vào sản xuất. Thành công của dự án một lần nữa cho thấy sự đóng góp hiệu quả của Chương trình phát triển tài sản trí tuệ vào phục vụ đời sống và sản xuất.(Nguồn: “Chế tạo thành công thiết bị laze ứng dụng trong LIDAR đo nồng độ khí ô zôn dựa trên sáng chế được bảo hộ”, Nguyễn Văn Mạnh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 12, năm 2018)Nội dung chính được văn bản đề cập là gì?
Câu hỏi:
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:Chế tạo thành công thiết bị laze ứng dụng trong LIDAR đo nồng độ khí ô zôn dựa trên sáng chế được bảo hộ(1) Khí ô zôn cùng với khói, bụi là thành phần chính làm giảm chất lượng không khí. Đặc biệt tại các đô thị lớn, các khu công nghiệp, đây là một tác nhân chính gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người, sự sống còn của các sinh vật, hiệu ứng nhà kính và nhiều vấn đề khác. Vì thế việc xác định nồng độ, sự phân bố của ô zôn trong khí quyển là hết sức cần thiết, nhất là ở lớp khí quyển thấp.(2) Các phương tiện theo dõi hiện nay chủ yếu là bóng thám không với đầu dò ô zôn điện hóa, máy bay, vệ tinh và LIDAR. Trong đó, LIDAR là kỹ thuật đo đạc xa dùng bức xạ laze có khả năng quan trắc các đặc trưng vật lý của khí quyển theo không gian (xa tới vài chục km) và thời gian (24/7). Do vậy, để xác định nồng độ và sự phân bố của khí ô zôn, kỹ thuật đo LIDAR vi sai (DIAL) đã được sử dụng hiệu quả. Công cụ không thể thiếu của kỹ thuật này là các laze có độ đơn sắc cao, điều khiển được bước sóng. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là cần phải có một hệ laze đơn sắc có thể lựa chọn được bước sóng thích hợp theo yêu cầu. (3) Sáng chế số 10311 đề cập đến thiết kế và cấu tạo của một máy phát đơn xung laze có độ rộng phổ tới hạn dựa trên nguyên tắc tổ hợp hai hiệu ứng phản hồi phân bố năng lượng và dập tắt dao động trong buồng cộng hưởng. Điểm khác biệt trong sáng chế 10311 là sử dụng yếu tố phân chia chùm bơm bằng một gương kép làm với nhau một góc 30 0 , nhờ vậy có thể phát laze với mọi bước sóng bơm mà không cần thêm bất cứ một cơ cấu nào khác ngoại trừ việc tính toán bước sóng laze.(4) Để hiện thực hóa sáng chế thành sản phẩm có khả năng áp dụng vào đời sống, Viện Vật lý (Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) đã đề xuất và được Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt thực hiện dự án “Áp dụng sáng chế máy phát laze màu phản hồi phân bố dập tắt theo văn bằng bảo hộ số 10311 ngày 23/5/2012 ứng dụng trong nghiên cứu khoa học, đời sống và kiểm soát ô nhiễm” (thuộc Chương trình phát triển tài sản trí tuệ giai đoạn 2016- 2020). Dự án được thực hiện trong 2 năm, với mục tiêu hiện thực hóa một sáng chế công nghệ cao trở thành sản phẩm có khả năng áp dụng vào thực tiễn; ứng dụng thử nghiệm sản phẩm được sản xuất theo sáng chế vào kiểm soát ô nhiễm môi trường.(5) Sau gần 2 năm thực hiện, dự án đã hoàn thành tốt các nội dung đề ra như: thiết kế các chi tiết máy của hệ đo trên cơ sở tính toán, hiệu chỉnh các kích thước phù hợp theo các thông số đưa ra trong sáng chế; thử nghiệm mô hình thiết bị trong phòng thí nghiệm; gia công các chi tiết máy; lắp ráp các chi tiết thành phần, hoàn chỉnh đồng bộ đầu phát và bộ khuếch đại; viết phần mềm điều khiển lựa chọn bước sóng và chạy thử trên hệ máy; khảo sát các thông số laze, hiệu chỉnh laze… Trên cơ sở đó, các nhà khoa học của Viện Vật lý đã chế tạo thành công hệ máy phát laze có độ đơn sắc cao (độ bán rộng phổ 5 picô mét), có thể lựa bước sóng tùy ý trong khoảng 560-610 nm, xung ngắn (độ bán rộng xung 12 picô giây), công suất xung đạt tới cỡ megaoát, có thể nhân đôi tần số (tức là chia đôi bước sóng) trong khoảng 280-305 nm ứng dụng trong quan trắc kiểm soát ô nhiễm môi trường. (6) Máy được vận hành theo nguyên lý: khi bước sóng laze bơm nằm trong vùng hấp thụ của chất màu được sử dụng làm môi trường hoạt chất, hai chùm bơm thành phần tạo thành hệ cách tử động theo nguyên lý giao thoa ánh sáng trên bề mặt môi trường hoạt chất gây nên hiệu ứng laze. Khi thay đổi hằng số cách tử bằng cách thay đổi góc tạo vân giao thoa sẽ cho phép lựa chọn bước sóng theo yêu cầu. Các lựa chọn này có thể sử dụng chương trình điều khiển trên máy tính hoặc lựa chọn bằng tay. Kết quả thử nghiệm ứng dụng hệ laze đã chế tạo để đo đạc mức độ ô nhiễm khí ô zôn tại khí quyển tầng thấp (dưới 3,5 km) ở Hà Nội cho thấy, máy hoạt động ổn định ở mức ± 5% về thăng giáng năng lượng, 0,005 ± 0,001 nm về độ rộng phổ, sai số về bước sóng đạt ± 0,05 nm với chế độ hoạt động liên tục. Đặc biệt, phần mềm điều khiển lựa chọn bước sóng được nhúng trong bộ vi điều khiển vừa điều khiển trực tiếp bằng bảng điều khiển trên mặt máy, vừa có thể kết nối với máy tính rất thuận tiện cho người sử dụng.(7) Theo đánh giá của các chuyên gia, hiệu quả khoa học của dự án là rất rõ nét, khi lần đầu tiên Việt Nam chế tạo được một thiết bị laze ứng dụng trong kiểm soát môi trường có các đặc tính đặc biệt, với giá thấp hơn nhiều so với sản phẩm cùng loại trên thị trường. Khả năng thương mại hóa của sản phẩm cao do nhu cầu sử dụng các thiết bị đo đạc, đánh giá các thông số môi trường, phục vụ công tác quan trắc và kiểm soát ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay là rất lớn. Đặc biệt, sản phẩm của dự án sử dụng phương pháp mới, áp dụng trong thực tế sẽ mang lại nhiều ưu điểm so với phương pháp truyền thống như quan trắc liên tục hoặc bất kỳ thời điểm theo yêu cầu, độ chính xác của phương pháp đo thông số môi trường cao, dễ dàng kiểm soát các yếu tố gây ra sai số của phép đo, thời gian đo ngắn…(8) Bên cạnh hiệu quả về mặt khoa học, kinh tế và môi trường, việc chế tạo thành công một thiết bị công nghệ cao dựa trên một sáng chế của người Việt đã góp phần đưa các tài sản trí tuệ đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời làm tiền đề cho việc ứng dụng các sáng chế, giải pháp hữu ích trong và ngoài nước không được bảo hộ tại Việt Nam vào sản xuất. Thành công của dự án một lần nữa cho thấy sự đóng góp hiệu quả của Chương trình phát triển tài sản trí tuệ vào phục vụ đời sống và sản xuất.(Nguồn: “Chế tạo thành công thiết bị laze ứng dụng trong LIDAR đo nồng độ khí ô zôn dựa trên sáng chế được bảo hộ”, Nguyễn Văn Mạnh, Tạp chí Khoa học & Công nghệ Việt Nam, số 12, năm 2018)Nội dung chính được văn bản đề cập là gì?
A. Chế tạo thành công một hoạt chất chống ung thư
B. Chế tạo thành công một ứng dụng bảo vệ môi trường
Đáp án chính xác
C. Chế tạo thành công một loại vắc xin chống covid 19
D. Chế tạo thành công một loại máy phục vụ cho nông nghiệp
Trả lời:
Chế tạo thành công một ứng dụng bảo vệ môi trường là nội dung chính của văn bản trên.Đáp án cần chọn là: B
====== **** mời các bạn xem câu tiếp bên dưới **** =====
- Vệ tinh và LIDAR có tác dụng gì trong đời sống?
Câu hỏi:
Vệ tinh và LIDAR có tác dụng gì trong đời sống?
A. Kháng khuẩn hiệu quả
B. Đặc trị ung thư
C. Cung cấp dinh dưỡng cho cơ thể
D. Xác định nồng độ, sự phân bố của ô zôn trong khí quyển
Đáp án chính xác
Trả lời:
Vệ tinh và LIDAR có tác dụng xác định nồng độ, sự phân bố của ô zôn trong khí quyển
Đáp án cần chọn là: D====== **** mời các bạn xem câu tiếp bên dưới **** =====
- Sáng chế máy phát laze màu phản hồi phân bố dập tắt theo văn bằng bảo hộ số 10311 có tác dụng trong lĩnh vực nào?
Câu hỏi:
Sáng chế máy phát laze màu phản hồi phân bố dập tắt theo văn bằng bảo hộ số 10311 có tác dụng trong lĩnh vực nào?
A. Kinh tế
B. Môi trường
Đáp án chính xác
C. Y tế
D. An ninh
Trả lời:
Sáng chế máy phát laze màu phản hồi phân bố dập tắt theo văn bằng bảo hộ số 10311 có tác dụng trong lĩnh vực môi trường.
Đáp án cần chọn là: B====== **** mời các bạn xem câu tiếp bên dưới **** =====
- Hệ máy phát laze được sáng chế có độ đơn sắc bao nhiêu picô mét?
Câu hỏi:
Hệ máy phát laze được sáng chế có độ đơn sắc bao nhiêu picô mét?
A. 5 picô mét
Đáp án chính xác
B. 6 picô mét
C. 7 picô mét
D. 8 picô mét
Trả lời:
Hệ máy phát laze được sáng chế có độ đơn sắc 5 picô mét
Đáp án cần chọn là: A====== **** mời các bạn xem câu tiếp bên dưới **** =====
- Máy phát laze được vận hành theo nguyên lý nào dưới đây?
Câu hỏi:
Máy phát laze được vận hành theo nguyên lý nào dưới đây?
A. Khi bước sóng laze bơm nằm trong vùng hấp thụ của chất, laze tạo thành hệ cách tử động theo nguyên lý giao thoa ánh sáng trên bề mặt môi trường hoạt chất gây nên hiệu ứng laze
B. Khi hai chùm bơm thành phần tạo thành hệ cách tử động theo nguyên lý giao thoa ánh sáng trên bề mặt môi trường hoạt chất gây nên hiệu ứng laze
C. Khi bước sóng laze bơm nằm trong vùng hấp thụ của chất màu được sử dụng làm môi trường hoạt chất, hai chùm bơm thành phần gây nên hiệu ứng laze
D. Khi bước sóng laze bơm nằm trong vùng hấp thụ của chất màu được sử dụng làm môi trường hoạt chất, hai chùm bơm thành phần tạo thành hệ cách tử động theo nguyên lý giao thoa ánh sáng trên bề mặt môi trường hoạt chất gây nên hiệu ứng laze.
Đáp án chính xác
Trả lời:
Nguyên lí: Khi bước sóng laze bơm nằm trong vùng hấp thụ của chất màu được sử dụng làm môi trường hoạt chất, hai chùm bơm thành phần tạo thành hệ cách tử động theo nguyên lý giao thoa ánh sáng trên bề mặt môi trường hoạt chất gây nên hiệu ứng laze.
Đáp án cần chọn là: D====== **** mời các bạn xem câu tiếp bên dưới **** =====