TRƯỜNG THPT
MAI SƠN
|
ĐỀ THI THỬ THPT QUỐC GIA
MÔN NGỮ VĂN
NĂM HỌC 2021-2022
Thời gian làm bài 120 phút
|
I. ĐỌC – HIỂU (3 điểm)
Đọc văn bản dưới đây và thực hiện các yêu cầu
…(1)“Khi còn trẻ, hãy ra ngoài nhiều hơn ở nhà. Hãy nhào vô xin người khác “bóc hết, lột sạch” khả năng của mình. Chỉ sợ bất tài nộp hồ sơ “xin việc”, mà chả ai thèm cho, chả ai thèm bóc lột. Khi đã được bóc và lột hết, dù sau này đi đâu, làm gì, bạn đều cực kỳ thành công. Vì năng lực được trui rèn trong quá trình làm cho người khác. Sự chăm chỉ, tính kỷ luật, quen tay quen chân, quen ngáp, quen lười… cũng từ công việc mà ra. Mọi ông chủ vĩ đại đều từng là những người làm công ở vị trí thấp nhất. Họ đều rẽ trái trong khi mọi người rẽ phải. Họ có những quyết định không theo đám đông, không cam chịu sống một cuộc đời tầm thường, nhạt nhòa… rồi chết.
(2) Còn những bạn thu nhập 6 triệu cũng túng thiếu, 20 triệu cũng đi vay mượn đế tiêu dùng, thì thôi, cuộc đời họ chấm dứt giấc mơ lớn. Tiền nong cá nhân quản lý không được, thì làm sao mà quản trị tài chính một cơ nghiệp lớn? Tư duy thế nào thì nó ra số phận thế đó.”
(Trích Trên đường băng, Tony Buổi Sáng, Nxb Trẻ, 2015)
Câu 1. Phương thức biểu đạt chính đuợc sử dụng trong văn bản?
Câu 2. Em hiểu như thế nào về từ “bóc lột” trong câu: “Khi còn trẻ, hãy ra ngoài nhiều hơn ở nhà. Hãy nhào vô xỉn người khác “bóc hết, lột sạch” khả năng của mình. Chỉ sợ bất tài nộp hồ sơ “xin việc”, mà chả ai thèm cho, chả ai thèm bóc lột”.
Câu 3. Vì sao tác giả cho rằng: “Tư duy thế nào thì nó ra số phận thế đó?”
Câu 4. Anh/chị rút ra được thông điệp, bài học gì sau khi đọc hiểu văn bản.
II. LÀM VĂN (7 điểm)
Câu 1. Viết đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày quan điểm của em về ý kiến: rẽ trái trong khi mọi người rẽ phải.
Câu 2. Cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của Sông Đà (Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân) trong hai đoạn trích dưới đây:
Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về.
Và:
Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổỉ xưa.
—————–HẾT—————-
ĐÁP ÁN ĐỀ THI SỐ 1
I. ĐỌC – HIỂU
Câu 1.
Phương thức biểu đạt chính của văn bản là nghị luận.
Câu 2.
Từ ghép “bóc lột” trong câu: “Khi còn trẻ, hãy ra ngoài nhiều hơn ở nhà. Hãy nhào vô xin người khác “bóc hết, lột sạch ” khả năng của mình. Chỉ sợ bất tài nộp hồ sơ “xin việc”, mà chả ai thèm cho, chả ai thèm bóc lột” có nghĩa là để người khác khai thác những kiến thức, kỹ năng mình có. Từ quá trình bị bóc lột đó, bản thân người trẻ sẽ nhận ra và phát huy thế mạnh, năng lực của mình cũng như khắc phục những hạn chế để hoàn thiện và nâng cao giá trị bản thân.
Câu 3.
“Tư duy thế nào thì nó ra số phận thế đó ” bởi lẽ:
+ Tư duy sẽ quyết định bạn nói gì, làm gì, bạn muốn mình trở nên như thế nào, đó chính là hiện tại và tương lai của bạn.
+ Tư duy ở đây cần được hiểu theo nghĩa rộng, bao hàm cách suy nghĩ, cách nhìn nhận vấn đề trí tuệ và năng lực tư duy sáng tạo.
+ Theo quan niệm này, số phận giàu hay nghèo, sướng hay khổ không đến từ may mắn, từ thần thánh mà đến từ chính bản thân mỗi người.
Câu 4.
Thí sinh chủ động đưa ra ý kiến của bản thân, đảm bảo được yêu cầu về nội dung và hình thức như sau:
– Nội dung: trình bày được bài học/thông điệp cá nhân rút ra từ văn bản và bàn luận ngắn gọn về thông điệp đó.
Bài học/ Thông điệp: cần linh hoạt và tích cực trui rèn trong những môi trường lao động thực tế; trải nghiệm giúp ta trưởng thành; kinh nghiệm chỉ có được khi ta lăn lộn trong cuộc sống; học cách quản lý tài chính cá nhân;…
– Hình thức: đoạn văn ngắn, khoảng 8-10 dòng, diễn đạt mạch lạc.
II. LÀM VĂN
Câu 1.
– Nội dung:
+ Xác định đúng vấn đề nghị luận;
+ Thể hiện được quan điểm cá nhân, đảm bảo được tính nhân văn trong bài viết;
+ Triển khai vấn đề thành các luận điểm, luận cứ phù hợp, trình tự hợp lí, lập luận chặt chẽ; sử dụng phù hợp các thao tác lập luận; biết kết hợp giữa nêu lí lẽ và đưa dẫn chứng.
– Hình thức:
+ Đảm bảo cấu trúc đoạn văn nghị luận;
+ Đoạn văn mạch lạc, diễn đạt trôi chảy, bảo đảm tính liên kết;
+ Lời văn có cá tính và cảm xúc;
+ Không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Câu 2.
– Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kỹ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục rõ ràng, đầy đủ.
– Văn viết có cảm xúc, thể hiện khả năng phân tích, cảm thụ, nhiều những khám phá mới mẻ, diễn đạt trôi chảy, đảm bảo tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Cảm nhận đoạn 1 – sông đà góc nhìn từ trên cao – sự ngỡ ngàng trước vẻ đẹp dịu dàng, quyến rũ khác biệt hoàn toàn với sông đà ở thượng nguồn
– Khác với dòng sông hung bạo ở thượng nguồn, với hình ảnh con thủy quái hung ác, kẻ thù số một của con người, Sông Đà đoạn này chuyển mình, hóa thân thành người thiếu nữ mộng mơ, xinh đẹp, kiều diễm và dịu dàng. Mang trong mình hai nét vẽ tương phản, đối chọi như vậy, sự độc đáo của dòng sông càng được khắc họa.
– Hình dáng và màu sắc Sông Đà – vẻ đẹp kiều diễm và đầy quyến rũ
+ Từ trên cao nhìn xuống, quả là điểm quan sát thật lý tưởng để có thể thu vào tầm mắt dòng chảy Sông Đà. Nguyễn Tuân đã đưa ra hai liên tưởng vô cùng mới mẻ, chưa từng thấy về hình dáng con sông. Có lẽ, từ điểm nhìn rất cao, hình ảnh Sông Đà đã hóa thành sợi dây thừng ngoằn ngoèo, và khi tàu bay hạ xuống, dòng sông đã hóa thành áng tóc trữ tình tuôn dài tuôn dài. Liên tưởng dòng sông như mái tóc óng ả để buông lơi, chảy dài đến bất tận. Hoa ban trắng, hoa gạo đỏ đôi bờ bung nở như nhánh xuân cài lên mái tóc, lại ẩn hiện mờ ảo trong sương khói Tây Bắc, đó là vẻ đẹp rất thơ, vẻ đẹp của người thiếu nữ bước ra từ cõi tiên, mà mái tóc nàng làm bừng hương sắc, xao động đất trời.
+ Xuyên qua màn mây, dòng sông còn hiện lên qua màu sắc biến ảo. Chính vẻ đẹp của mây trời đã tạo cho con sông Đà một vẻ đẹp riêng không trộn lẫn. Nguyễn Tuân phát hiện ra vẻ đẹp của sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa. Mùa xuân, nước sông Đà xanh ngọc bích “chứ không xanh màu xanh canh hến của nước sông Gâm, sông Lô”. Xanh ngọc bích là xanh trong, xanh sáng, xanh biếc – một sắc màu gợi cảm, trong lành. Đó là sắc màu của nước, của núi, của da trời. Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mẫn bực bội độ thu về”. Câu văn sử dụng phép so sánh “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”.
Cảm nhận đoạn 2 – sông đà góc nhìn của người trôi thuyền trên sông phía hạ lưu – niềm say sưa, sự thích thú trước vẻ đẹp của chốn hoang sơ, thoát hắn khỏi xã hội hiện đại ngoài kia
+ Quá khứ: Sông Đà đã hiện lên trong tầm mắt một vẻ đẹp hoang sơ, với hai bờ đúng như tác giả đã so sánh “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Đó là vẻ đẹp của ngàn năm kiến tạo còn vẹn nguyên đến tận bây giờ.
+ Hiện tại: Một vẻ đẹp đầy sức sống “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa mà tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”. Cảnh tượng đó còn ấn tượng bởi một “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”.
Tất cả tạo cho Sông Đà ở hạ nguồn nét hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích, chẳng lưu mang hơi thở hiện đại.
+ Tương lai: Trước cái tĩnh lặng của Sông Đà, tác giả bỗng thèm nghe một tiếng còi xúp – lê, tiếng còi ấy là tiếng còi của tương lai, của nhịp sống, hơi thở hiện đại. Tiếng còi sẽ phá đi sự tĩnh lặng, báo hiệu những đoàn tàu sẽ lên Tây Bắc để xây dựng quê hương.
– Sông Đà là nơi hội tụ hai nét tiêu biểu, đặc trưng của thiên nhiên Tây Bắc vừa hung vĩ, uy nghiêm, dữ dội lại vừa trữ tình, thơ mộng.
– Nhà nghiên cứu Mai Quốc Liên từng nhận định: Nguyễn Tuân là “nhà thơ bị đóng đinh trên cây thập giả của văn xuôi”, ý nói rằng những trang văn Nguyễn Tuân thấm đẫm chất trữ tình, thấm đẫm chất thơ, hơi thở của không gian thơ. Và với hai đoạn văn trên, ta cảm nhận chất thơ thấm vào từng câu chữ.
Bài làm mẫu
Nguyễn Tuân là nhà văn duy mỹ – suốt đời tôn thờ và phụng sự cái đẹp. Tác phẩm của ông là những trang viết sống động về con người và thiên nhiên với cảm hứng ngợi ca. Người láỉ đò Sông Đà là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh huớng thẩm mĩ đó của nhà văn. Dưới ngòi bút của ông, Sông Đà hiện lên hung bạo như một “loài thủy quái nham hiểm và độc dữ” nhưng cũng rất dịu dàng và say đắm như một mỹ nhân Tây Bắc. Đặc biệt là hai đoạn văn tả lại cảnh sông Đà ở hạ nguồn – một vẻ đẹp khiến người ta đắm đuối: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài… bực bội gì mỗi độ thu về.” và “Thuyền tôi trôi trên sông Đà… một nỗi niềm cổ tích cổ xưa.”
Nguyễn Tuân là một trong chín tác giả lớn của văn học nước nhà. Chữ “ngông” chính là từ dùng khi người ta nhắc về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân. Cái ngông trong nghệ thuật thể hiện ở sự tài hoa và uyên bác trong trang văn, trong cách sử dụng Tiếng Việt, mới, lạ, không giống ai trong hệ thống đề tài. Mỗi một nhà văn vẽ lại thế giới theo cách riêng của mình, Nguyễn Tuân là nhà văn tô điểm cho thế giới bằng cái đẹp. Đối với Nguyễn Tuân, văn phải đẹp, phải trau chuốt. Cả một đời người nghệ sĩ ấy say mê và truy tìm cái đẹp, cái thật, làm phát lộ nó dưới ngòi bút tài hoa của mình. Người lái đò Sông Đà là một tùy bút xuất sắc được in trong tập Sông Đà 1960, đó là thành quả của một chuyến đi gian khổ nhưng rất hứng thú của nhà văn vào những năm 1958 – 1960. Chuyến đi đã thỏa mãn niềm khát khao xê dịch, đi để tìm kiếm vẻ đẹp của thiên nhiên, miền đất Tây Bắc, tìm ra thứ “vàng mười” đã qua thử lửa trong vẻ đẹp của con người miền Tây Bắc.
Phần đầu của đoạn trích, tác giả chủ yếu miêu tả sự hung bạo, hùng vĩ, hiểm nguy của một dòng sông lắm thác nhiều ghềnh. Đó là sự dữ dội của cảnh đá dựng bờ sông, cảnh ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, cảnh những hút nước rùng rợn; cảnh thác đá gào thét; dòng sông với biết bao cửa tử cửa sinh… Đến cuối đoạn trích tác giả chủ yếu bàn về vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà.
Nguyễn Tuân quan sát sông Đà ở nhiều điểm nhìn. Đầu tiên là từ trên cao nhìn xuống với điểm nhìn bao quát. Ở điểm nhìn ấy tác giả đã hình dung con sông Đà giống như một người đàn bà kiều diễm với áng tóc trữ tình đằm thắm: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núỉ Mèo đốt nương xuân”. Hình ảnh so sánh Sông Đà như một áng tóc kết hợp với điệp ngữ “tuôn dài tuôn dài” như mở ra trước mắt của người đọc độ dài vô tận của dòng sông; mái tóc của Đà giang như nối dài đến vô tận, trùng điệp giữa bạt ngàn màu xanh lặng lẽ của núi rừng. Phép so sánh “như một áng tóc trữ tình” tạo cho người đọc một sự xuýt xoa trước vẻ đẹp diễm tuyệt của sông Đà. Sông Đà giống như một kiệt tác của trời đất. Chữ “áng” thường gắn với áng thơ, áng văn, nay được họ Nguyễn gắn với “tóc” thành “áng tóc trữ tình”. Hai chữ “ẩn hiện” càng tăng lên sự bí ẩn và trữ tình của dòng sông. Sắc đẹp diễm tuyệt của sông Đà – của người thiếu nữ còn được tác giả nhấn mạnh qua động từ “bung nở” và từ láy “cuồn cuộn” kết hợp với hoa ban nở trắng rừng, hoa gạo đỏ rực hai bên bờ làm người đọc liên tưởng mái tóc như được trang điểm bởi mây trời, như cài thêm hoa ban hoa gạo và đẹp mơ màng như sương khói mùa xuân.
Xuyên qua màn mây, dòng sông còn hiện lên qua màu sắc biến ảo. Chính vẻ đẹp của mây trời đã tạo cho con sông Đà một vẻ đẹp riêng không trộn lẫn. Nguyễn Tuân phát hiện ra vẻ đẹp của sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa. Mùa xuân, nước sông Đà xanh ngọc bích “chứ không xanh màu xanh canh hến của nước sông Gâm, sông Lô”. Xanh ngọc bích là xanh trong, xanh sáng, xanh biếc – một sắc màu gợi cảm, trong lành. Đó là sắc màu của nước, của núi, của da trời. Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đỉ vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội độ thu về”. Câu văn sử dụng phép so sánh “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa” khiến người đọc hình dung được vẻ đẹp đa dạng của sắc nước sông Đà. Cách miêu tả sắc đỏ mùa thu sông Đà của Nguyễn Tuân cũng thật độc đáo. Đỏ bầm, màu đỏ không gắt, không nhạt, mang trong mình chút hồng hào, pha vào đó sắc phù sa, lại không đục ngầu, màu sắc ấy còn mang dáng hình của kẻ say, hay là vì người đã quá say dòng sông, quá mê đắm cảnh sông nước Tây Bắc.
Sông Đà qua góc nhìn của người trôi thuyền trên sông phía hạ lưu lại trở thành niềm say sưa, sự thích thú trước vẻ đẹp của chốn hoang sơ, thoát hẳn khỏi xã hội hiện đại ngoài kia. Bằng cảm quan góc của người đi ròng và của người trôi thuyền trên sông phía hạ lưu, tức là điểm nhìn cận cảnh, dòng sông Đà đã hiện lên trong tầm mắt một vẻ đẹp hoang sơ, với hai bờ đúng như tác giả đã so sánh “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổỉ xưa”. Đó là vẻ đẹp của ngàn năm kiến tạo còn vẹn nguyên đến tận bây giờ. Tưởng như, thế giới ngoài kia đã bỏ quên chốn này, nơi đây, vẫn giữ cho nó khối hình, dáng vóc của hoang sơ nguyên thủy. Trôi thuyền trên sông quãng này, quá khứ còn vọng dư âm bởi sự tĩnh lặng, im ắng, tưởng như Thời Lí, Trần, Lê… quãng sông cũng chỉ im ắng như vậy.
Qua cái nhìn đầy say mê và thưởng thức, hai bên bờ sông Đà đã hiện lên một vẻ đẹp đầy sức sống “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa mà tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”. Cảnh tượng đó còn ấn tượng bởi một “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Vẻ đẹp ấy vừa mang trong nó một sức sống căng tràn, đó là màu xanh của nương ngô, của cỏ gianh mới nhú, màu xanh của trù phú, mỡ màng, non trẻ, thanh khiết vô cùng. Là hình ảnh con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương chẳng sợ sệt ông khách Sông Đà. Là đàn cá dầm xanh quẫy đuôi để lộ cái bụng trắng như bạc thoi. Tất cả tạo cho Sông Đà ở hạ nguồn nét hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích, chẳng lưu mang hơi thở hiện đại.
Trước cái tĩnh lặng của Sông Đà, tác giả bỗng thèm nghe một tiếng còi xúp – lê, tiếng còi ấy là tiếng còi của tương lai, của nhịp sống, hơi thở hiện đại. Tiếng còi sẽ phá đi sự tĩnh lặng, báo hiệu những đoàn tàu sẽ lên Tây Bắc để xây dựng quê hương.
Sông Đà là nơi hội tụ hai nét tiêu biểu, đặc trưng của thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng vĩ, uy nghiêm, dữ dội lại vừa trữ tình, thơ mộng. Con sông Đà hùng vĩ dài trên năm trăm cây số, ở nơi thượng nguồn nó mang một vẻ đẹp hào hùng và thách thức, vậy mà vượt qua đoạn thượng nguồn dòng sông hoàn toàn mang bộ mặt khác: thơ mộng, trữ tình, thanh bình, yên ả; nó giống như một cô thiếu nữ xinh đẹp trút bỏ cái vẻ “đỏng đảnh” đế trở về với vẻ đẹp dịu dàng lãng mạn của mình. Nguyễn Tuân đã gợi lên vẻ đẹp của sông Đà bằng hai từ “gợi cảm”. Và quả thực, vẻ đẹp thơ mộng của dòng sông khiến cho người ngoạn cảnh gặp lại có cảm giác “đằm đằm ấm ấm”, gợi biết bao thi vị. Nhà nghiên cứu Mai Quốc Liên từng nhận định: Nguyễn Tuân là “nhà thơ bị đóng đinh trên cây thập giá của văn xuôi”, ý nói rằng những trang văn Nguyễn Tuân thấm đẫm chất trữ tình, thấm đẫm chất thơ, hơi thở của không gian thơ. Và với hai đoạn văn trên, ta cảm nhận chất thơ thấm vào từng câu chữ.
Sông Đà là dòng sông của miền non tản Tây Bắc. Đó cũng là một dòng sông hiểm nguy rình rập với “trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh”. Nhưng đó cũng là một dòng sông lai láng chất thơ trong cảm nhận của Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân đã miêu tả con sông như một công trình nghệ thuật, một tác phẩm hội họa mà tạo hoá ban tặng tô điểm cho đất nước; ông khám phá dòng sông ở phương diện thẩm mỹ thể hiện phong cách tài hoa. Trang sách khép lại rồi mà dường như tâm hồn của bạn đọc vẫn đang trôi mênh mang trên một dòng sông “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích…”.
I. ĐỌC – HIỂU (3 điểm)
Tôi nhớ một nhà tâm lý học đã nói: Nếu bạn cảm thấy chán nản thì tốt nhất là giúp đỡ một ai đó. Tại sao? Vì giúp đỡ ai đó, bạn sẽ hướng tâm hồn ra bên ngoài và nhận được niềm vui. Có lần tôi đang ngồi trong một sân bay cho chuyến bay của mình. Vé của tôi là vé hạng nhất. Ở hàng này chỗ ngồi rộng hơn, thức ăn ngon hơn và các tiếp viên thì rất xinh. Và tôi lại được số ghế tốt nhất trong khoang máy bay, ghế số A1. Trước lúc máy bay cất cánh, tôi để ý đến một phụ nữ trẻ đeo theo nhiều túi xách tay và còn bế một em bé đang khóc nữa. Lương tâm tôi bảo: Này, làm gì đi chứ! tôi đấu tranh tư tưởng một lúc rồi cuối cùng đến bên cô ấy, đề nghị đổi chỗ ngồi. Tôi sẽ ngồi ghế hạng thường của cô ấy, còn cô sẽ ngồi chỗ ghế hạng nhất của tôi. Cô ấy rất ngạc nhiên, và trước lời thuyết phục của tôi, cô đồng ý.
Khi máy bay bay được vài tiếng, tôi đi lên dãy ghế hạng nhất. Vén tấm màn, tôi thấy đằng kia, trong chiếc ghê rộng rãi, hai mẹ con họ đang ngủ ngon lành. Quay trở lại chỗ ngồi nhỏ bẻ của mình, Tôi thấy trong lòng vui như thể vừa trúng số độc đắc. Và chuyến bay đó đối với tôi thật thú vị. Lòng tôi tự nhủ, muốn có nhiều niềm vui thì phải siêng năng làm những nghĩa cử như vậy. Việc cho đi không chỉ là giúp đỡ người khác mà còn làm cho cuộc sống của bạn tốt hơn.
(Trích “Làm những việc tốt”, 7 thói quen của người thành đạt, dẫn theo http://gacsach.com)
Câu 1. Qua văn bản, tác giả bài viết khuyên nguời đọc điều gì?
Câu 2. Giải thích nghĩa của từ “lương tâm”.
Câu 3. Giải thích ý hiểu của anh/chị về quan điểm: Việc cho đi không chỉ là giúp đỡ người khác mà còn làm cho cuộc sống của bạn tốt hơn.
Câu 4. Có ý kiến cho rằng: Xã hội càng văn minh, lòng người càng vô cảm, những nghĩa cử tử tế cứ ngày một ít đi. Anh/Chị có đồng tình với ý kiến này không? Vì sao?
II. LÀM VĂN (7 điểm)
Câu 1. Viết bài luận 200 chữ trình bày quan điểm của em về chủ đề: Cho đi và nhận lại.
Câu 2. Phân tích vẻ đẹp bức tranh tứ bình Việt Bắc – Tố Hữu. Từ đó, liên hệ với bức tranh thiên nhiên trong Cảnh ngày hè – Nguyễn Trãi, để làm rõ những tương đồng, khác biệt trong cách cảm nhận, trong nét vẽ của hai nhà thơ.
—————–HẾT—————-
ĐÁP ÁN ĐỀ THI SỐ 2
I. ĐỌC HIỂU
Câu 1.
Qua văn bản, tác giả bài viết khuyên người đọc cần biết cho đi, biết sẻ chia, bởi điều đó “không chỉ giúp đỡ người khác mà còn làm cho cuộc sống của bạn tốt hơn.”
Câu 2.
“Lương tâm”: lương là tốt, thiện, trong sáng; tâm là tâm hồn.
Lương tâm là tâm hồn tử tế, lương thiện.
Hiểu một cách cụ thể hơn, lương tâm là ý thức của một con người đề ra và tuân thủ những tiêu chuẩn đạo đức chi phối suy nghĩ, lời nói, hành động của họ.
Câu 3.
Quan điểm: “Việc cho đi không chỉ là giúp đỡ người khác mà còn làm cho cuộc sống của bạn tốt hơn” có thể được hiểu là:
+ “Việc cho đi” là giúp đỡ người khác, bởi khi bạn cho đi là bạn đang khiến người khác có được một lợi ích lẽ ra thuộc về bạn.
+ Nhưng cho đi lại “khiến cuộc sống của bạn tốt hơn” bởi bạn bớt đi một lợi ích nhưng bạn có lại được những giá trị khác: niềm vui vì đã chia sẻ, niềm tin vào những điều tử tế, niềm hạnh phúc khi thấy người được giúp đỡ bớt khó khăn,…
+ Tuy nhiên, đừng “cho đi” chỉ vì cảm xúc, tâm trạng, niềm vui của mình. “Cho đi” quan trọng nhất phải từ lòng đồng cảm, muốn được chia sẻ.
Câu 4.
Thí sinh chủ động đưa ra ý kiến của bản thân, đảm bảo được yêu cầu về nội dung và hình thức như sau:
– Nội dung: trình bày được ý kiến của bản thân về nhận định và bàn luận ngắn gọn về quan điểm của mình.
– Hình thức: đoạn văn ngắn, khoảng 8 – 10 dòng, diễn đạt mạch lạc.
Gợi ý:
Xã hội ngày càng văn minh, lòng người ngày càng vô cảm. Điều này có thể dễ dàng nhận thấy trong cuộc sống hàng ngày khi con người quá bận hoặc quá cảnh giác hoặc quá ích kỉ để mở lòng chia sẻ với người khác. Người ta vẫn vội vàng hay hờ hừng đi qua một đứa bé đứng sợ hãi ở góc đường mất phưong hướng khi lạc mẹ. Nhưng tôi tin ở khắp mọi nơi trên Trái Đất này vẫn có những “lương tâm”, có những “nghĩa cử” đáng trân trọng. Bởi “nhân chi sơ tính bản thiện”, sâu thẳm trong mỗi con người vẫn là bản tính thiện lương, chỉ là bị che khuất đi bởi những bon chen, bận bịu,… Xã hội sẽ tốt đẹp hơn nếu như mỗi ngày, bạn dành một chút thời gian để quan tâm tới những điều quanh mình, bạn sẽ nhận ra những điều kì diệu. Và bạn cũng sẽ muốn, sẽ làm những điều kì diệu, dù là điều kì diệu nho nhỏ.
II. LÀM VĂN
Câu 1.
Bài làm tham khảo: Cho đi và nhận lại, như phép cộng và phép trừ, làm cho cuộc sống cân bằng, mang lại nhiều hơn sự sẻ chia, tình người và hạnh phúc. Như Tố Hữu từng viết: “Nếu là con chim, là chiếc lá/ Thì chim phải hót chiếc lá phải xanh/ Lẽ nào vay mà không trả/ Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”. Cho chính là trao đi, nhưng là trao một cách tự nguyện, từ tâm. Nhận là đón lấy sự giúp đỡ từ người khác bằng lòng trân trọng và hàm ơn. Có như vậy, cho và nhận mới trở thành nghĩa cử cao đẹp. Không ai chỉ luôn nhận, và chẳng ai chỉ luôn cho. Luôn là sự trao đổi lại qua giữa cho và nhận, bởi ai cũng nằm trong cộng đồng xã hội, đều bị chi phối, phụ thuộc lẫn nhau. Cho không khiến bạn nghèo đi, nhận không khiến bạn hèn kém. Cho là sự sẻ chia, là phép cộng của cảm xúc, bạn cho đi, bạn nhận về bao niềm biết ơn, bạn thấy mình có ích, bạn thấy mình đóng góp ít nhiều, và nó đem lại cho bạn sự hạnh phúc. Khi bạn khó khăn, hãy đừng ngần ngại nhận sự giúp đỡ, bởi người giúp là người mong muốn bạn vượt qua khó khăn, là người trân trọng bạn, yêu thương và quan tâm bạn, bạn nhận không chỉ sự giúp đỡ, mà còn nhận cả tấm lòng. Thế nhưng, cho và nhận hãy biết đúng lúc, đúng cách và đúng người bạn nhé. Không hiếm kẻ đã làm mất đi vẻ đẹp của hai từ cho và nhận. Cho để đánh bóng tên tuổi, hay vì mục đích cá nhân, còn nhận như sự biếng lười, ỉ lại… Những kiểu người như vậy, đừng ban bố cho họ hay hàm ơn họ. Văn minh là sống tử tế, mà trước hết cần phải biết cho và nhận văn minh.
Câu 2.
* Yêu cầu chung:
– Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kỹ năng về dạng bài nghị luận văn học để tạo lập văn bản. Bài viết phải có bố cục rõ ràng, đầy đủ; văn viết có cảm xúc, thể hiện khả năng phân tích, cảm thụ.
– Diễn đạt trôi chảy, đảm bảo tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
* Yêu cầu cụ thể:
—(Để xem đầy đủ nội dung của Đề thi số 2 vui lòng xem online hoặc đăng nhập vào Học247 để tải về máy)—
I. ĐỌC – HIỂU (3 điểm)
Việc mình làm được thì đừng để người khác
Chúng ta hãy coi đây là một phương châm sống không chỉ trong cuộc sống cá nhân mà cả trong việc hành xử đối với người khác và giáo dục cho những đứa trẻ.
Không phải vì bởi đã có những người dọn rác nên chúng ta có thể xả rác bừa bãi và vô tội vạ để mặc cho những công nhân đó phải cực nhọc dọn dẹp những thứ hổ lốn do chúng ta vung ném ra.
Người Nhật, đi đâu, mỗi cá nhân đều có một túi đựng rác nhỏ gọn và tiện lợi để đựng rác của chính mình nhằm tránh việc phải vứt chúng một cách tuỳ tiện vào đâu đó. Họ coi việc đó là bổn phận và trách nhiệm của chính mình trước với môi trường và những người xung quanh. Và do vậy mà đất nước họ trở nên sạch đến mức mà cá có thể sống được ở trong các cống rãnh chứa nước thải sinh hoạt và sản xuất.
Việc mình làm được thì đừng để người khác.
Hãy lấy đó làm phương châm để tự mình ý thức mọi hành động của mình và để giáo dục những đứa trẻ trở nên văn minh với cùng một nhận thức như thế. Điều đó không chỉ tốt cho bản thân mà còn hữu ích cho cả những người khác và cho cả môi trường sống. Chính chúng ta sẽ thổi tuỳ tiện trong việc xả thải, và tự thấy có trách nhiệm để cân nhắc trước khi thực hiện những hành động kiểu đó.
Ở nhiều quốc gia châu Âu, họ quy định mỗi gia đình phải phân loại rác ngay tại tư gia với từng loại, nhóm rõ ràng, nếu không sẽ bị xử phạt rất nặng. Ví dụ nhóm rác hữu cơ có thể phân huỷ và không thể phân huỷ, nhóm vô cơ không thể phân huỷ và có thể tái chế…vì vậy, việc ra nơi công cộng và xả thải bừa bãi chính là việc xâm hại vào trật tự quản lý hành chính về môi trường. Những người thu gom rác vừa vất vả, lại vừa khó thể nào xử lý được việc phân loại các loại rác được người dân thải ra khắp nơi như thế. .
Từ việc đó, có thể đưa đến một triết lý giáo dục dành cho những đứa trẻ, đó là muốn tự lập, tự chủ và tự tin để từ đó trở nên tự do thì việc gì làm được thì đừng để người khác”. Chúng ta sẽ có một thế hệ văn minh và độc lập, có thể tái thiết lại được đất nước đang rơi vào những suy đồi và tha hoá mọi mặt ngày hôm nay và giai đoạn lịch sử khốc hại này.
Chúng ta không thể thay đổi được lịch sử, nhưng chúng ta có thể tạo ra lịch sử và có thể quyết định được nó tồn tại theo cách nào. Và chúng ta, vào một lúc nào đó, c tiếc về lịch sử khi nhìn lại, nhưng chính vì thế đừng để điều hối tiếc đó xảy ra mới là điều tốt đẹp hơn cả.
(Trích bài trên trang Facebook Cái Khả Thể, ngày 2/1/2018)
Câu 1. Nêu những dẫn chứng mà tác giả đã liệt kê để làm sáng tỏ cho quan điểm: “Việc mình làm được thì đừng để người khác”.
Câu 2. Theo văn bản thì ta cần hiểu “phương châm sống” là gì? Phương châm sống có vai trò gì đối với cuộc sống mỗi người?
Câu 3. Anh/Chị hiểu thế nào về triết lí giáo dục: “muốn tự lập, tự chủ và tự tin để từ đó trở nên tự do thì “việc gì làm được thì đừng để người khác”?
Câu 4. Bài viết trên với tiêu chí: “Việc mình làm được thì đừng để người khác. Có người lại cho rằng: Việc ai người đó phải tự làm, đã có sự phân công xã hội, đừng làm hộ người khác sẽ khiến họ ỷ lại.” Bàn luận về hai ý kiến trên.
II. LÀM VĂN (7 điểm)
Câu 1. Bàn về hai chữ Tự giác.
Câu 2. Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài có hai lần nhắc đến hình ảnh sợi dây trói:
Lần thứ nhất: A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một tháng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong vợ, A Sử thắt nốt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi A Sử tắt đèn, đi ra, khép của buồng lại. Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn.
Lần thứ hai: Trời ơi, nó bắt trói đúng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết thế.
(Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017)
Từ việc phân tích hai đoạn trên, anh/chị hãy cho biết và đánh giá vấn đề nhân sinh nhà văn Tô Hoài đã gửi gắm.
—————-HẾT—————
ĐÁP ÁN ĐỀ THI SỐ 3
I. ĐỌC – HIỂU
Câu 1.
Quan điểm: Việc mình làm được thì đừng để người khác được làm sáng tỏ qua những dẫn chứng sau:
– Người Nhật, đi đâu, mỗi cá nhân đều có một túi đựng rác nhỏ gọn và tiện lợi để đựng rác của chính mình nhằm tránh việc phải vứt chúng một cách tuỳ tiện vào đâu đó.
– Ở nhiều quốc gia châu Âu, họ quy định mỗi gia đình phải phân loại rác ngay tại tư gia với từng loại, nhóm rõ ràng, nếu không sẽ bị xử phạt rất nặng.
Câu 2.
Phương châm sống cần được hiểu là nguyên tắc quan trọng chi phối suy nghĩ, lời nói, hành động của một con người.
Phương châm sống tác động đến suy nghĩ và hành vi của con người, từ đó, quyết định sự hoàn thiện nhân cách cũng như sự đánh giá của xã hội dành cho người đó. Mỗi một người có một phương châm sống tích cực, văn minh thì xã hội mới có thể tiến bộ và ngày một tốt đẹp.
Câu 3.
Triết lí giáo dục: muốn tự lập, tự chủ và tự tin để từ đó trở nên tự do thì “việc gì làm được thì đừng để người khác” cần được hiểu là:
+ Suy nghĩ việc mình làm được thì đừng để người khác sẽ khiến cho chúng ta chủ động được cuộc sống của mình thay vì chờ đợi, ỷ lại hay đùn đẩy công việc và trách nhiệm cho người khác. Khi đó, ta có được sự tự lập và tự chủ – tức sự chủ động trong cuộc sống.
+ Đồng thời, khi mình tin rằng mình có thể làm được là khi mình sẽ nhận thấy được khả năng thực sự của bản thân và thấy được mình làm được nhiều việc hơn trong cùng một khoảng thời gian. Qua đó, sự đóng góp của bạn cho quá trình văn minh của xã hội sẽ tăng lên. Và đó là nguồn gốc đem đến sự tự tin – sự chủ động trong suy nghĩ.
+ Khi bạn chủ động được cuộc sống và suy nghĩ, đó là bạn tự do.
Câu 4.
– Về hình thức: 5-7 dòng, diễn đạt mạch lạc.
– Về nội dung: Trình bày quan điểm của bản thân và bàn luận thêm để làm rõ.
Gợi ý:
– Việc mình làm đừng để người khác: Nhấn mạnh ý thức tự giác đảm nhận những công việc để thể hiện trách nhiệm với tập thể, cộng đồng.
– Việc ai người đó tự làm, đã có sự phân công xã hội, đừng làm hộ người khác sẽ khiến họ ỷ lại: Đề cao trách nhiệm và vai trò cá nhân, nhấn mạnh nghĩa vụ của mỗi người trong công việc của mình. Khi được giao công việc, thì phải hoàn thành trọn vẹn, không nên trông chờ sự giúp đỡ.
– Bàn luận: Cả hai ý kiến đều nhấn mạnh vào tinh thần tự giác và ý thức trước tập thể. Thí sinh chủ động nêu quan điểm cá nhân, chú ý kết hợp dẫn chứng và lý lẽ
II. LÀM VĂN
Câu 1.
– Biểu hiện của người tự giác như thế nào?
+ Người tự giác bao giờ cũng chăm chỉ, chỉn chu và hoàn thành tốt công việc được giao, là người luôn có được niềm tin từ mọi người.
Từ đó, họ dễ có vị trí cao trong cơ quan, tổ chức, xã hội.
– Vì sao cần rèn luyện sự tự giác?
+ Tự giác không phải là một tố chất bẩm sinh, mà được rèn luyện, dạy dỗ.
+ Tự giác giúp con người đạt được những thành tựu.
Câu 2.
– Khái quát vài nét về tác giả – tác phẩm
– Phân tích
+ Đoạn 1: Vị trí – xuất hiện trong đêm tình mùa xuân:
+ Đoạn 2: Vị trí– xuất hiện trong đêm mùa đông:
– So sánh – bàn luận
—(Để xem đầy đủ nội dung của Đề thi số 3 vui lòng xem online hoặc đăng nhập vào Học247 để tải về máy)—
Trên đây là một phần trích đoạn nội dung Bộ 3 đề thi thử THPT QG môn Ngữ văn năm 2021-2022 có đáp án trường THPT Mai Sơn. Để xem thêm nhiều tài liệu tham khảo hữu ích khác các em chọn chức năng xem online hoặc đăng nhập vào trang Lop12.com để tải tài liệu về máy tính.
Các em quan tâm có thể tham khảo tài liệu cùng chuyên mục:
Hy vọng tài liệu này sẽ giúp các em học sinh ôn tập tốt và đạt thành tích cao trong học tập.
Chúc các em học tập tốt !