TRƯỜNG THPT
HOA LƯ
|
ĐỀ THI THỬ THPT QUỐC GIA
MÔN NGỮ VĂN
NĂM HỌC 2021-2022
Thời gian làm bài 120 phút
|
I. ĐỌC – HIỂU (3 điểm)
Đọc văn bản dưới đây và thực hiện các yêu cầu
Theo kết quả khảo sát gần đây của Trung tâm hỗ trợ và tư vấn tâm lí (Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội), có đến 65,4% sinh viên năm thứ nhất tại một số trường đại học chưa hiểu hết về mục đích, ý nghĩa của ngành mình học; 50,8% không biết học xong sẽ làm việc gì và nơi nào muốn tuyển dụng họ. Khi được hỏi về mức độ thỏa mãn với nghề đã chọn, có đến 75,6% sinh viên cho biết họ ít thỏa mãn với sự lựa chọn của mình, “vào học rồi mới biết mình không hợp”; 32,4% sinh viên muốn được thi lại vào năm sau… Kết quả này cho thấy có nhiều bạn trẻ không chọn đúng nghề như mong muốn.
Những sai lầm chủ quan trong việc lựa chọn ngành học thường bắt đầu từ quan niệm mang nặng tính thực dụng: ngành này có dễ xin việc làm, có thu nhập cao, có được làm việc ở thành phố không?
Sai lầm có thể đến với người chọn nghề theo truyền thống gia đình, theo sự thành đạt của người thân, theo sự rủ rê của bạn bè… mà không quan tâm đến sự phù hợp của nghề đối với năng lực, nguyện vọng bản thân. Thậm chí, nhiều thí sinh không tự chọn ngành, chọn nghề để đăng kí thi đại học mà người lựa chọn, người làm hồ sơ chính là bố mẹ của thí sính.
Ngoài ra, một sai lầm phổ biến nữa là chọn nghề hời hợt theo kiểu “nước đến chân mới nhảy”. Nhiều học sinh đến năm lớp 12 vẫn chưa tìm hiểu và chưa quyết định chọn nghề. Bởi vậy… có khá nhiều thí sinh nộp 4, 5 bộ hồ sơ thậm chí có người đã nộp 9 – 13 bộ để “chống trượt”.
Việc chọn sai nghề khiến bản thân khó phát huy được năng lực; giảm năng suất và hiệu quả lao động, từ đó dẫn tới tâm lí chán nản, thất vọng, thiếu tự tin, mất dần động lực làm việc.
Lúc ấy, nếu muốn bắt đầu với nghề khác thì phải chịu tốn kém, mất thời gian học nghề mới … Đối với xã hội, có nhiều cá nhân lựa chọn sai nghề sẽ gây lãng phí cho công tác đào tạo và đào tạo lại, năng suất lao động không cao, nảy sinh nhiều xáo trộn cho hoạt động của các doanh nghiệp, tổ chức (có nhiều người bỏ nghề, chuyển nghề)
(Trích ¾ sinh viên chọn nhầm ngành học, Nhã Anh, theo Petrotimes, 16/4/2013)
Câu 1: Nội dung chính của đoạn trích trên là gì? (0.5 điểm)
Câu 2: Đoạn trích trên sử dụng phương thức biểu đạt nào? (0.5 điểm)
Câu 3: Anh/chị có đồng tình với quan điểm : Việc chọn sai nghề khiến bản thân khó phát huy được năng lực; giảm năng suất và hiệu quả lao động, từ đó dẫn tới tâm lí chán nản, thất vọng, thiếu tự tin, mất dần động lực làm việc không? Vì sao? (1 điểm)
Câu 4: Trong khoảng 5 – 7 dòng hãy trình bày suy nghĩ của anh/chị về vấn đề: Định hướng nghề nghiệp cho học sinh THPT – Cần tiết hay không? (1 điểm)
II. LÀM VĂN (7 điểm)
Câu 1: (2 điểm)
Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ) trình bày quan điểm anh/chị về việc lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai.
Câu 2: (5 điểm)
Phân tích làm nổi bật hình tượng con Sông Đà qua sự cảm nhận của Nguyễn Tuân trong đoạn trích tác phẩm “Người lái đò Sông Đà” (theo SGK Ngữ văn 12, tập 1, NXB Giáo dục, 2014).
—————–HẾT—————-
ĐÁP ÁN ĐỀ THI SỐ 1
I. ĐỌC – HIỂU
Câu 1:
– Nội dung chính của đoạn trích trên: Sinh viên với việc lựa chọn nghề.
Câu 2:
– Phương thức biểu đạt chính: nghị luận.
Câu 3:
Quan điểm “Việc chọn sai nghề khiến bản thân khó phát huy được năng lực, giảm năng suất và hiệu quả lao động, từ đó dẫn tới tâm lí chán nản, thất vọng, thiếu tự tin, mất dần động lực làm việc” nêu lên tác hại của việc chọn sai nghề, nhầm ngành của sinh viên. Học sinh có thể đồng tình hoặc phản đối, (hoặc vừa đồng tình vừa phản đối) quan điểm này.
– Nếu đồng tình, có thể lập luận theo hướng: Chọn sai nghề, nhầm ngành có nghĩa là người học đã không chọn ngành nghề phù hợp với năng lực, nguyện vọng và sở thích của mình, do đó, khi làm nghề sẽ không phát huy được khả năng, không có nhiệt tình làm việc, thiếu tự tin, khó vươn lên đỉnh cao trong nghề, giảm năng suất và hiệu quả lao động.
– Nếu phản đối, có thể lập luận theo hướng: Học sinh phổ thông trung học chưa có nhiều kinh nghiệm sống, vốn hiểu biết xã hội còn hạn chế, chưa được tư vấn nhiều về chọn nghề, vì thế rất dễ chọn sai nghề/nhầm ngành. Chỉ khi biết mình chọn sai nghề/nhầm ngành, người học mới nhận ra đâu là năng lực, sở trường, sở thích thật sự của mình, do đó sẽ tìm được một ngành/nghề khác phù hợp hơn. Từ việc biết mình chọn sai nghề/nhầm ngành, người học sẽ biết rút ra cho mình những kinh nghiệm bổ ích trong việc chọn ngành nghề. Hơn nữa, cuộc sống và xã hội luôn thay đổi, một người có thể sẽ phải thay đồi nhiều lần ngành nghề cho phù hợp hơn với sự phát triển của bản thân và xã hội.
Học sinh cũng có thể lập luận theo hướng khác nhưng phải chặt chẽ, hợp lí.
Nếu học sinh vừa đồng tình vừa phản đối thì cũng có thể kết hợp cả hai hướng lập luận trên hoặc theo hướng khác nhưng phải chặt chẽ, hợp lí, không trái với đạo đức và pháp luật.
Câu 4:
Định hướng nghề nghiệp cho học sinh THPT là điều cần thiết. Bởi:
– Việc định hướng nghề nghiệp giúp các bạn có thể hiểu nghề nghiệp là gì? Có cái nhìn tổng thể về việc lựa chọn nghề nghiệp quan trọng như thế nào với mỗi người.
– Việc định hướng nghề nghiệp giúp các em tìm được nghề nghiệp phù hợp với năng lực và phát huy được sở trường của mình.
– Tuy nhiên, sự phù hợp chỉ là một nửa của câu chuyện chọn nghề. Ngoài sự phù hợp, người ta còn cần phải yêu thích và say mê với công việc.
II. LÀM VĂN
Câu 1:
* Giới thiệu vấn đề
* Giải thích vấn đề
– Nghề là việc mà một người sẽ phải cố gắng để làm tốt công việc của mình sao cho phù hợp với khả năng, trình độ, lòng đam mê đối với nghề. là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó, nhờ được đào tạo, con người có được những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của xã hội.
– Lựa chọn nghề nghiệp tương lai là tìm ra một công việc mà mình sẽ gắn bó với nó trong cuộc sống lâu dài, thậm chí trong cả cuộc đời của mình.
* Phân tích
– Việc lựa chọn nghề trong tương lai là điều vô cùng quan trọng bởi:
+ Nghề nghiệp là thứ ta sẽ gắn bó dài lâu, sẽ cống hiến cả tâm lực, trí lực cho nó.
+ Nghề nghiệp là thứ sẽ nuôi sống ta.
+ Tìm được một nghề nghiệp phù hợp còn tạo ra cho ta niềm vui mỗi ngày.
– Nên lựa chọn nghề như thế nào?
+ Đầu tiên, việc chọn nghề nghiệp phải xuất phát từ sở thích, từ niềm đam mê. Tại sao lại như vậy? Chỉ có tình yêu, niềm đam mê mới làm con người có hứng thú với công việc mình làm. Và trong nghề nghiệp, đôi khi con người cũng gặp những khó khăn nhất định. Vì vậy mà tình yêu chính là sức mạnh giúp con người vượt qua những thử thách ban đầu khi ở giai đoạn khởi nghiệp
+ Thứ hai, nên lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực, sở trường của bản thân.
+ Việc lựa chọn và định hướng nghề nghiệp phải chủ động, không nên theo số đông, theo ý kiến cha mẹ…Vì nghề nghiệp chính là cuộc sống của mình. Không ai có thể sống thay mình cả.
+ Việc lựa chọn nghề nên có định hướng từ sớm, không nên “nước đến chân” mới chọn đại. Không phải ai cũng may mắn tìm thấy sự phù hợp trong nghề nghiệp ngay từ phút đầu lựa chọn. Vì thế, nếu có chọn nhầm, chọn chưa phù hợp, ta hoàn toàn có quyền làm lại. Quan trọng nhất là phải xác định được bản thân thích gì và muốn gì.
* Bàn luận, mở rộng
– Trong xã hội hiện nay, các bạn sinh viên hay thậm chí nhiều người đi làm cảm thấy mình lựa chọn sai ngành nghề.
– Hiện nay, tại các trường THPT, việc hướng nghiệp cho học sinh cũng chưa được chú trọng. Vấn đề này, cần có sự chung tay không chỉ của giáo dục mà còn toàn thể xã hội.
* Liên hệ bản thân
– Em sẽ chọn ngành nghề như thế nào trong tương lai?
Câu 2:
I. Giới thiệu chung
– Nguyễn Tuân là cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại, có thể coi ông là một định nghĩa về người nghệ sĩ.
– Nét nổi bật trong phong cách của ông là ở chỗ luôn nhìn sự vật ở phương diện văn hóa và mĩ thuật, nhìn con người ở phẩm chất nghệ sĩ và tài hoa. Ông thường có cảm hứng mãnh liệt với cái cá biệt, phi thường, dữ dội và tuyệt mĩ.
– Người lái đò sông Đà là bài tùy bút được in trong tập Sông Đà (1960) của Nguyễn Tuân. Sông Đà là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rộng lớn, xa xôi. Người lái đò sông Đà cho ta diện mạo của một Nguyễn Tuân khao khát được hòa nhịp với đất nước và cuộc đời này.
– Hình tượng con sông Đà là hình tượng trung tâm của tác phẩm…
II. Phân tích
1. Con sông hung bạo:
a) Sự hung bạo thể hiện ở cảnh đá bờ sông dựng vách thành:
– Hình ảnh “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời” đã gợi ra được độ cao và diễn tả được cái lạnh lẽo, âm u của khúc sông.
– Hình ảnh so sánh “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu” đã diễn tả sự nhỏ hẹp của dòng chảy gợi ra lưu tốc lớn, nhất là vào mùa nước lũ với bao nguy hiểm rình rập.
– Bằng liên tưởng độc đáo, Nguyễn Tuân đã tiếp tục khắc sâu ấn tượng về độ cao của những vách đá, sự lạnh lẽo, u tối của đoạn sông và cái nhỏ hẹp của dòng chảy “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
b) Sự hung bạo thể hiện ở ghềnh đá “quãng mặt ghềnh Hát Loóng”
– Nhân hóa con sông như một kẻ chuyên đi đòi nợ thuê: dữ dằn, tàn bạo.
– Điệp từ, điệp cấu trúc (nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió) cùng với việc sử dụng liên tiếp các thanh trắc đã tạo nên âm hưởng dữ dội, nhịp điệu khẩn trương, dồn dập như vừa xô đẩy, vừa hợp sức của sóng, gió và đá khiến cho cả ghềnh sông như sôi lên, cuộn chảy dữ dằn, tạo nên mối đe dọa thực sự đối với người lái đò nào “quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.
c) Sự hung bạo thể hiện ở những “cái hút nước” chết người:
– Sự khủng khiếp tàn độc:
+ Được tái hiện từ các góc nhìn khác nhau: từ trên nhìn xuống mặt nước sông “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”; từ dưới lòng sông nhìn ngược lên “thành giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan ụp vào…”
+ Được cảm nhận từ các vị thế khác nhau:
• Vị thế của người quay phim “ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà…”
• Vị thế của người xem phim “thấy mình đang lấy gân ngồi giữ chặt ghế như ghì lấy mép một chiếc lá rừng bị vứt vào một cái cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn…”
+ Được cảm nhận bằng các giác quan khác nhau: thị giác là những hình ảnh liên tưởng độc đáo và mới lạ; thính giác: lúc thì “nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, lúc thì“nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”
– Giải pháp: “Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu…”. Đó chính là sự minh chứng rõ nhất cho mức độ nguy hiểm tột cùng của những cái hút nước.
– Hậu quả khủng khiếp mà những cái hút nước gây ra: “Nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống” hoặc “Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và bị đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”
d) Sự hung bạo thể hiện ở chiến trường sông Đà
* Dấu hiệu đầu tiên là âm thanh tiếng nước thác:Âm thanh phong phú: lúc thì nghe như là oán trách, lúc như van xin, khi thì khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo, đặc biệt có lúc rống lên gầm thét những âm thanh cuồng nộ, ghê sợ để trấn áp con người.
* Các trùng vi thạch trận:
– Trùng vi thạch trận thứ nhất: Đó là “cả một chân trời đá”, “mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”.
+ Đá ở con thác này biết bày binh bố trận như Binh pháp Tôn Tử, gồm năm cửa trận, trong đó “có bốn cửa tử một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông”.
+ Cửa sinh lại chia làm ba tuyến- tiền vệ, trung vệ, hậu vệ- đòi ăn chết con thuyền đơn độc. Khi thạch trận bày xong, đá phối hợp với nước thác dữ dội và nham hiểm
– Trùng vi thạch trận thứ hai:
+ Khúc sông này càng tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền, và cũng chỉ có một cửa sinh. Cửa sinh ấy lại không kém phần nguy hiểm khi “thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào”
+ Phối hợp với đá là “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh (lao nhanh) trên sông đá”
+ Cùng với đó là bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ xô ra, đòi “níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử”.
– Trùng vi thạch trận thứ ba: Ít cửa ra vào, “bên phải bên trái đều là luồng chết cả”, chỉ có một luồng sống lại “ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”
2. Con sông trữ tình:
a) Góc nhìn từ trên cao (máy bay), Sông Đà mang vẻ đẹp của một mĩ nhân
– Từ trên cao nhìn xuống, dòng chảy uốn lượn của con sông giống như “cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình”, đặc biệt là giống như mái tóc của người thiếu nữ “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.
+ Dòng sông mang vẻ đẹp của một áng tóc trữ tình mềm mại, tha thướt và duyên dáng.
+ Vẻ đẹp của dòng sông hài hòa với núi rừng Tây Bắc, được núi rừng điểm tô thêm cho nhan sắc mĩ miều.
– Nhìn ngắm sông Đà từ nhiều thời gian khác nhau, tác giả đã phát hiện ra những sắc màu tươi đẹp và đa dạng của dòng sông. Màu nước biến đổi theo mùa, mỗi mùa có vẻ đẹp riêng trong cách so sánh rất cụ thể:
+ Mùa xuân, nước Sông Đà xanh màu “xanh ngọc bích”, tươi sáng, trong trẻo, lấp lánh
+ Mùa thu, nước Sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”
+ Đặc biệt, nhà văn khẳng định chưa bao giờ con sông có màu đen như thực dân Pháp đã “đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào”, và gọi bằng cái tên lếu láo Sông Đen.
– Góc nhìn từ bờ bãi sông Đà, dòng sông mang vẻ đẹp của một “cố nhân”:
+ Vẻ đẹp của nước Sông Đà gợi nhớ đến một trò chơi của con trẻ “trước mắt thấy loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”, đẹp một cách hồn nhiên và trong sáng.
+ Vẻ đẹp của nắng sông Đà lại gợi nhớ đến thế giới Đường thi “tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”” (Xuôi thuyền về Dương Châu giữa tháng ba, mùa hoa khói).
+ Vẻ đẹp của bờ bãi sông Đà lại gợi nhớ đến thế giới thần tiên trong khu vườn cổ tích “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà”.
=> Nhà văn đã cảm nhận được cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân thuộc khi gặp lại sau một thời gian “ở rừng đi núi đã hơi lâu”.
– Góc nhìn từ giữa lòng sông Đà, con sông mang vẻ đẹp của một người tình nhân:
+ Đó là vẻ đẹp tĩnh lặng, yên ả, thanh bình như còn lưu lại dấu tích của lịch sử cha ông.
+ Đó là vẻ đẹp tươi mới, tràn trề nhựa sống, như bắt đầu một mùa nảy lộc sinh sôi.
+ Đó còn là vẻ đẹp hoang sơ, cổ kính
– Cảnh đẹp quá nên đã gợi cảm hứng cho thi ca bao đời. Vẻ đẹp ấy đã cùng với sông Đà chảy qua không gian, thời gian, và đặc biệt là chảy qua cả những áng thơ ca bao đời, thơ Nguyễn Quang Bích rồi Tản Đà… để trở thành bất tử. Trong cái nhìn của thi sĩ Tản Đà, Sông Đà đã trở thành “một người tình nhân chưa quen biết”.
3. Nghệ thuật xây dựng hình tượng:
– Tác phẩm cũng cho thấy sự tài hoa và uyên bác của Nguyễn Tuân. Vốn sống phong phú và trí tưởng tượng dồi dào đã giúp nhà văn tạo nên những trang viết hết sức độc đáo và có giá trị nghệ thuật cao.
– Nhà văn cũng đã thể hiện tài năng điêu luyện của một người nghệ sĩ ngôn từ.
III. Đánh giá chung
– Sông Đà hiện lên qua những trang văn của Nguyễn Tuân không chỉ thuần túy là thiên nhiên, mà còn là một sản phẩm nghệ thuật vô giá. Qua đây tác giả cũng kín đáo thể hiện tình cảm yêu nước tha thiết và niềm say mê, tự hào với thiên nhiên của quê hương xứ sở mình.
– Hình tượng sông Đà còn có ý nghĩa là phông nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp của con người – người lái đò trên dòng sông.
I. ĐỌC – HIỂU (3 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
… Bây giờ, tôi muốn bạn xem lại hai thực đơn mà lâu nay bạn cũng như xã hội vẫn dùng. Chúng ta đang chạy đua nhiều lúc quá sức cho thực đơn thể chất của chúng ta. Chúng ta tìm mọi cách để có được những thực phẩm tốt nhất, ngon nhất, và lạ nhất để phục vụ mình. Chúng ta thường cất câu hỏi: Hôm nay sẽ ăn gì? Thế nhưng, chúng ta hầu như không cất tiếng hỏi: Hôm nay chúng ta sẽ đọc gì, xem gì, nghe gì. Khi chúng ta kiếm được tiền thì hầu như chúng ta chỉ nghĩ đến việc hưởng thụ vật chất như ăn uống, mua sắm, tích lũy mà chúng ta quá ít nghĩ đến việc tổ chức một cuộc sống tinh thần. Nhiều người khi có một mảnh đất rộng thường xây một ngôi nhà càng to càng tốt mà không nghĩ đến một mảnh vườn để trồng cây và hoa và chim chóc đến ở…
Mới đây, tôi xem một bộ phim nói về một dự án của các sinh viên thuộc một số trường đại họ ở Tokyo Nhật Bản. Những sinh viên này lập ra một dự án có tên Dự án Phục hồi Kỷ niệm. Công việc của dự án là tìm lại những bức ảnh của các gia đình bị trận sóng thần trước đó cuốn đi. .. Có một người cha chỉ có duy nhất một đứa con gái nhưng đã bị sóng thần cướp đi sinh mạng. Ông không còn bất cứ tấm ảnh nào của con ông. Dự án Phục hồi Kỷ niệm đã tìm lại được một tấm ảnh con gái ông. Với ông, tấm ảnh đứa con gái bé bỏng của mình đã trở thành tài sản quý báu nhất của ông và làm cho nỗi đau đớn mất con của ông vơi đi rất nhiều. Vật chất và đời sống đầy đủ của nước Nhật không thể mang đến cho người cha kia hạnh phúc nhưng một kí ức đẹp đã cứu ông khỏi đau đớn và tuyệt vọng…
(Nguyễn Quang Thiều – Người Việt đang sống với tâm hồn khô cằn?)
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích. (0.5 điểm)
Câu 2: Hai thực đơn này được tác giả đề cập đến trong văn bản là gì? (0.5 điểm)
Câu 3: Nhận xét của Anh/chị về Dự án Phục hồi Kỷ niệm của những sinh viên Nhật được đề cập trong đoạn trích trên. (1 điểm)
Câu 4: Qua việc đọc hiểu đoạn trích trên, anh chị có nhận thức như thế nào về một cuộc sống hạnh phúc thực sự. (1 điểm)
II. LÀM VĂN (7 điểm)
Câu 1. (2 điểm)
Từ nội dung đoạn trích trên, anh chị hãy viết 01 đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của mình về những hậu quả của việc: Chúng ta quá ít nghĩ đến việc tổ chức một cuộc sống tinh thần.
Câu 2. (5 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ sau đây:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
(Tây Tiến – Quang Dũng – Ngữ Văn 12, Tập một)
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đình núi nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
(Việt Bắc – Tố Hữu – Ngữ Văn 12, Tập một)
—————–HẾT—————-
ĐÁP ÁN ĐỀ THI SỐ 2
I. ĐỌC – HIỂU
Câu 1:
– Phương thức biểu đạt chính: Nghị luận.
Câu 2:
– Hai thực đơn này được tác giả đề cập đến trong bài là thực đơn thể chất (vật chất) và thực đơn cho cuộc sống tinh thần.
Câu 3:
– Học sinh trình bày nhận xét, quan điểm cá nhân, có thể dựa vào một số gợi ý sau:
+ Dự án này chính là một lời khẳng định vai trò to lớn của đời sống tinh thần đối với mỗi con người. Cuộc sống bề bộn với gánh nặng vật chất đôi khi làm người ta lãng quên đi những giá trị tinh thần vô giá. Dù vậy, đời sống tinh thần vẫn là yếu tố cần thiết và không thể thiếu để có cuộc sống hạnh phúc.
+ Đây là một dự án có ý nghĩa vô cùng to lớn, không chỉ đối với đất nước Nhật Bản mà còn đối với tất cả các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Nó chứng tỏ rằng sinh viên Nhật Bản ý thức được mối quan hệ giữa yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần trong cuộc sống con người, là điều mà thế hệ trẻ hiện nay cần học hỏi.
Câu 4:
– Học sinh trình bày nhận xét, quan điểm cá nhân, có thể dựa vào một số gợi ý sau:
+ Một cuộc sống hạnh phúc thực sự là một cuộc sống có sự cân bằng, hài hòa giữa yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần.
+ Yếu tố vật chất cần thiết cho cuộc sống hạnh phúc, tuy nhiên, con người cần biết sử dụng yếu tố vật chất như một phương tiện để tạo nên một đời sống tinh thần phong phú, giàu có.
II. LÀM VĂN
Câu 1:
* Giới thiệu vấn đề
* Giải thích vấn đề: Tinh thần là những gì thuộc về ý nghĩa, tình cảm,… thuộc về nội tâm của con người. Như vậy cuộc sống tinh thần có thể hiểu là những hoạt động để duy trì yếu tố tinh thần của con người.
* Khái quát thực trạng: Một thực trạng vô cùng đáng buồn hiện nay đó là con người ngày càng chạy theo những nhu cầu, mong muốn vô tận về vật chất mà bỏ quên việc phải xây dựng đời sống tinh thần.
* Nêu hậu quả:
– Việc quá ít nghĩ đến việc xây dựng đời sống tinh thần sẽ dẫn đến việc đời sống tinh thần con người ngày càng trở nên khô héo, đơn điệu, nhàm chán.
– Quá ít nghĩ đến việc tổ chức một cuộc sống tinh thần cũng chính là nguyên nhân gây ra hiện tượng vô cảm trong cuộc sống ngày nay.
– Vô cảm, đời sống tinh thần đơn điệu, bị bỏ quên sẽ dẫn đến việc con người không biết cách cư xử với nhau, không biết đến lòng nhân văn nhân ái. Dễ mắc các thói kiêu ngạo, tàn nhẫn, vô tâm.
– Đời sống tinh thần con người không phong phú cũng góp phần làm cho hiệu quả công việc giảm sút, kìm hãm sự phát triển kinh tế cá nhân và xã hội.
* Giải pháp:
– Bồi đắp tâm hồn bằng những hoạt động nghệ thuật như: đọc sách, đọc thơ, nghe nhạc, ngắm tranh, trồng cây …Hiểu một bài thơ hay, đọc một quyển sách hay, ngắm một bức tranh đẹp, nghe một bài nhạc đặc sắc v.v… đều làm cho ta có những cảm xúc tuyệt vời về cái Đẹp. Những cảm xúc tuyệt vời về cái Đẹp sẽ dẫn đến những hành động đẹp trong cuộc sống.
Câu 2:
1. Giới thiệu khái quát về hai tác giả, tác phẩm, đoạn trích:
– Quang Dũng (1921-1988), quê Hà Nội. Ông là một nghệ sĩ đa tài với hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn. Tố Hữu (1920-2002), quê ở Huế, một nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ cách mạng Việt Nam với hồn thơ đậm đà tính dân tộc.
– Tây Tiến (1948), Việt Bắc (1954) đều là những thành tựu đặc sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp, đều là những bài ca không thể nào quên về một thời gian khổ mà hào hùng, hào hoa của lịch sử dân tộc.
– Hai đoạn thơ trên đều viết về nỗi nhớ của các tác giả với núi rừng Tây Bắc và một quãng đời không thể nào quên.
2. Phân tích:
a. Cảm nhận về đoạn thơ trong bài “Tây Tiến” của Quang Dũng:
* Nội dung:
– Trước hết là khung cảnh thiên nhiên:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”
+ Không gian được bao trùm bởi một màn sương giăng mắc trở nên mờ ảo, như hư, như thực. Sương chiều bảng lảng đầy thi vị, chứ không còn là “sương lấp đoàn quân mỏi” khi màn đêm buông xuống
+ Sông nước, bến bờ lặng tờ, hoang dại như thời tiền sử, chỉ có màu lau trắng trải dài tít tắp, phất phơ theo chiều gió thổi, xôn xao ẩn chứa những nỗi niềm của con người… Thiên nhiên như có linh hồn, “hồn lau” hài hòa với “hồn thơ” của những người lính đa cảm. Cũng có thể hiểu “hồn lau” là một ẩn dụ đặc sắc gợi về vẻ đẹp giản dị, gần gũi, hồn hậu của những con người miền Tây- những người lao động trên sông nước mênh mông.
– Trên nền thiên nhiên tĩnh lặng và thơ mộng đó nổi bật hình ảnh con người:
“Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
+ “Dáng người trên độc mộc” phải chăng đó là dáng hình mềm mại, uyển chuyển của thiếu nữ sơn cước trên chiếc thuyền độc mộc trên dòng sông Mã, tạo nên chất thơ làm tiêu tan vẻ dữ dội của “dòng nước lũ” hung hãn
+ Như để hoà hợp với con người, những bông hoa rừng cũng đong đưa làm duyên trên dòng nước xiết. “Hoa đong đưa” là một hình ảnh lạ, hoa lá vô tri như được thổi hồn vào, gợi ra ánh mắt lúng liếng tình tứ của những cô gái vùng núi xinh đẹp trẻ trung
+ Dường như trong khổ thơ nào của bài thơ cũng thấp thoáng bóng dáng của người đẹp như vậy:
– Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
– Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
– Mai Châu mùa em thơm nếp xôi (đoạn 1)
– Kìa em xiêm áo tự bao giờ
– Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm (đoạn 3)
=> Hình ảnh người đẹp thấp thoáng trong các khổ thơ đã điểm cho kí ức Tây Tiến chút lãng mạn, mơ mộng, khiến cho câu chữ trở nên mềm mại hơn và lòng người cũng nhẹ nhàng hơn…
– Những từ có thấy, có nhớ là những lời tự hỏi lòng mình đầy bâng khuâng, lưu luyến khi đã cách xa với Tây Tiến cả về không gian và thời gian…
* Nghệ thuật: Bút pháp lãng mạn được tác giả sử dụng một cách tinh tế khiến hình ảnh thiên nhiên và con người miền Tây hiện lên độc đáo…
b. Cảm nhận về đoạn thơ trong bài “Việt Bắc” của Tố Hữu:
c. So sánh hai đoạn thơ:
– Sự tương đồng:
– Sự khác biệt:
– Lí giải:
3. Đánh giá chung:
—(Để xem đầy đủ nội dung của Đề thi số 2 vui lòng xem online hoặc đăng nhập vào Học247 để tải về máy)—
I. ĐỌC – HIỂU (3 điểm)
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi nêu được:
Trong một buổi diễn thuyết đầu năm học, Brian Dison – Tổng giám đốc tập đoàn Coca Cola đã nói chuyện với sinh viên về mối tương quan giữa nghề nghiệp với những trách nhiệm khác của con người. Trong bài diễn thuyết có đoạn:
“Bạn chớ đặt mục tiêu của bạn vào những gì mà người khác cho là quan trọng. Chỉ có bạn mới biết rõ điều gì tốt nhất cho chính mình.
Bạn chớ nên thờ ơ với những gì gần gũi với trái tim bạn. Bạn hãy nắm chắc lấy như thể chúng là những phần trong cuộc sống của bạn. Bởi vì nếu không có chúng, cuộc sống của bạn sẽ phần nào mất đi ý nghĩa.
Bạn chớ để cuộc sống trôi qua kẽ tay vì bạn cứ đắm mình trong quá khứ hoặc ảo tưởng về tương lai. Chỉ bằng cách sống cuộc đời mình trong từng khoảnh khắc của nó, bạn sẽ sống trọn vẹn từng ngày của đời mình.
Bạn chớ bỏ cuộc khi bạn vẫn còn điều gì đó để cho đi. Không có gì là hoàn toàn bế tắc, mà nó chỉ thực sự trở nên bế tắc khi ta thôi không cố gắng nữa.
Bạn chớ ngại nhận rằng mình chưa hoàn thiện. Đó chính là sợi chỉ mỏng manh ràng buộc mỗi người chúng ta lại với nhau.
Bạn chớ ngại mạo hiểm. Nhờ mạo hiểm với những vận hội của đời mình mà bạn biết cách sống dũng cảm…”
(Theo “Quà tặng cuộc sống – Sống trọn vẹn từng ngày” – www.kienthuccuocsong.edu.vn)
Câu 1: Xác định và nêu tác dụng của biện pháp tu từ chính được sử dụng trong đoạn trích trên? (0.5 điểm)
Câu 2: Theo tác giả, vì sao “Bạn chớ đặt mục tiêu của bạn vào những gì mà người khác cho là quan trọng”? (0.5 điểm)
Câu 3: Em hiểu như thế nào về câu nói: “Bạn chớ để cuộc sống trôi qua kẽ tay vì bạn cứ đắm mình trong quá khứ hoặc ảo tưởng về tương lai. Chỉ bằng cách sống cuộc đời mình trong từng khoảnh khắc của nó, bạn sẽ sống trọn vẹn từng ngày của đời mình?” (1 điểm)
Câu 4: Brian Dison nói: “Bạn chớ ngại mạo hiểm. Nhờ mạo hiểm với những vận hội của đời mình mà bạn biết cách sống dũng cảm…”, anh/chị có đồng tình với điều đó không? Vì sao? (1 điểm)
II. LÀM VĂN (7 điểm)
Câu 1. (2 điểm)
Viết một đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh/chị về ý kiến của Brian Dison trong phần đọc hiểu: “Không có gì là hoàn toàn bế tắc, mà nó chỉ thật sự trở nên bế tắc khi ta thôi không cố gắng nữa”.
Câu 2: (5 điểm)
Cảm nhận của anh (chị) về niềm khao khát muốn đi chơi của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân (Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài). Từ đó, liên hệ với niềm mong đợi chuyến tàu đêm đi qua phố huyện của hai chị em Liên An (“Hai đứa trẻ” – Thạch Lam) và nhận xét quan niệm của mỗi nhà văn về cuộc sống có ý nghĩa.
—————-HẾT—————
ĐÁP ÁN ĐỀ THI SỐ 3
I. ĐỌC – HIỂU
Câu 1:
– Biện pháp: Điệp ngữ (Bạn chớ ….)
– Tác dụng: Khẳng định, nhận mạnh những điều quan trọng mà chúng ta không nên bỏ qua trong cuộc sống.
Câu 2:
– Mỗi người đều có những nét riêng về tính cách, sở trường, suy nghĩ, quan điểm hoàn cảnh, sở thích,… Vì vậy, mục tiêu của mỗi người cũng khác.
– Nếu đặt mục tiêu của mình vào những gì mà người khác cho là quan trọng chúng ta sẽ không phát huy hết năng lực sở trường của bản thân; đánh mất chính mình, biến mình thành một bản sao; sống vô nghĩa….
– Hiểu rõ điều gì tốt cho bản thân là hiểu được chính mình. Chính điều này rất quan trọng giúp chúng ta tự tin, chủ động và quyết tâm nhiều hơn để chinh phục được mục tiêu, làm cho cuộc sống thú vị và ý nghĩa hơn.
Câu 3:
– “Bạn chớ để cuộc sống trôi qua kẽ tay”: cách nói hình ảnh về việc để thời gian trôi đi vô ích, thái độ thờ ơ với cuộc sống.
– “Sống cuộc đời mình trong từng khoảnh khắc”: nâng niu trân trọng cuộc sống của bản thân.
– “Sống trọn vẹn từng ngày”: sống có ý nghĩa, sử dụng thời gian hợp lí, có ích.
=> Ý nghĩa: khuyên con người trân trọng thời gian hiện tại, quý trọng cuộc sống của bản thân.
Câu 4:
– Đồng tình với quan điểm của tác giả.
– Cách giải:
+ Mạo hiểm, dám đương đầu với thử thách bạn sẽ có nhiều cơ hội và từ đó tăng thêm khả năng thành công.
+ Bài học về sự dũng cảm, dám đương đầu với thử thách.
II. LÀM VĂN
Câu 1:
* Giới thiệu vấn đề
* Giải thích vấn đề:
– “Không có gì là hoàn toàn bế tắc mà nó chỉ thật sự trở nên bế tắc khi bạn thôi không cố gắng nữa”: Trong cuộc sống khi đứng trước những khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua, chúng ta thường nghĩ đó là sự bế tắc, đường cùng. Thế nhưng đó chỉ là ranh giới tạm thời để thử thách ý chí, nghị lực con người, biết cố gắng, nỗ lực vươn lên trong cuộc sống thì không có khó khăn nào mà không thể vượt qua.
* Bàn luận vấn đề
– Trong cuộc sống chúng ta phải đối mặt với rất nhiều khó khăn cần phải vượt qua, người bản lĩnh là người có ý chí, nghị lực để vượt qua mọi khó khăn đó.
– Ý chí, nghị lực vượt khó là một phẩm chất cần có đối với con người hiện đại, giúp chúng ta chinh phục thử thách và khám phá những năng lực phi thường của chính mình.
– Người có ý chí, nghị lực còn giúp truyền cảm hứng vượt khó đến những người xung quanh.
– Dẫn chứng
* Mở rộng vấn đề và liên hệ bản thân
– Phê phán những kẻ hèn nhát, nhụt ý chí trước những khó khăn thử thách.
– Liên hệ bản thân.
Câu 2:
1. Mở bài:
* Giới thiệu tác giả Tô Hoài, tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”
– Tô Hoài là cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Sáng tác của ông thiên về diễn tả sự thực đời thường. Ông có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta. Ông cũng là nhà văn luôn hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động của người từng trải, vốn từ vựng giàu có.
– Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (1952) in trong tập Truyện Tây Bắc được tặng giải Nhất – Giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955.
2. Phân tích:
2.1 Giới thiệu về nhân vật Mị
a. Chân dung, lai lịch:
– Nhan sắc: “trai đến đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị”. Mị xinh đẹp như bông hoa ban giữa núi rừng Tây Bắc.
– Tài năng: thổi lá hay như thổi sáo, có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị.
– Phẩm chất tốt đẹp: Khi bố mẹ Mị hết đời chưa trả được món nợ cho thống lí Pá Tra, thống lí Pá Tra định bắt Mị về làm con dâu gạt nợ:
+ Hiếu thảo:“ Con sẽ làm nương ngô giả nợ thay cho bố”
+ Tự ti vào khả năng lao động: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô”
+ Khao khát tự do: “Bố đừng bán con cho nhà giàu”
=> Xứng đáng được hưởng hạnh phúc nhưng lại bị xã hội của tiền quyền, cường quyền và thần quyền vùi dập, đẩy vào ngã rẽ tăm tối.
b. Số phận bất hạnh: bị biến thành con dâu gạt nợ.
– Nguyên nhân:
+ Do món nợ truyền kiếp.
+ Vì Mị bị A Sử lừa bắt về do hủ tục cướp vợ của người dân tộc thiểu số.
– Ban đầu mới về, Mị phản kháng nhưng yếu ớt rồi muốn tự tử nhưng đến khi quen dần Mị chịu sự đày ải cả về thể xác lẫn tinh thần.
c. Phân tích khát khao muốn đi chơi của Mị
* Nguyên nhân làm sống dậy khát khao:
– Khung cảnh ngày xuân:
+ Màu sắc rực rỡ: cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy phơi trên mỏm đá xòe rộng ra như những cánh bướm sặc sỡ.
+ Âm thanh náo nhiệt, tưng bừng: tiếng trẻ con chờ tết chơi quay cười ầm trên sân chơi trước nhà …
– Tiếng sáo: có sự dịch chuyển, vận động:
+ Từ xa đến gần (Từ ngoài vào trong, từ khách thể nhập vào chủ thể):
Lấp ló ngoài đầu núi vọng lại.
Văng vẳng ở đầu làng.
Lửng lơ bay ngoài đường.Rập rờn trong đầu Mị.
+ Từ hiện tại đến quá khứ (Từ cõi thực đến cõi mộng).
+ Tiếng sáo rủ bạn đi chơi đầy háo hức ⟶ tiếng sáo gọi bạn yêu trong tuyệt vọng.
⟹ Dìu hồn Mị bềnh bồng sống lại với những khát khao yêu thương hạnh phúc của ngày xưa, dẫn Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ.
2.2 Liên hệ với niềm mong đợi chuyến tàu đêm đi qua phố huyện của hai chị em Liên An
a. Giới thiệu tác giả Thạch Lam và tác phẩm “Hai đứa trẻ”:
b. Niềm mong đợi chuyến tàu đêm của hai chị em:
2.3 Điểm tương đồng và khác biệt:
3. Kết luận
– Khái quát và mở rộng vấn đề.
—(Để xem đầy đủ nội dung của Đề thi số 3 vui lòng xem online hoặc đăng nhập vào Học247 để tải về máy)—
Trên đây là một phần trích đoạn nội dung Bộ 3 đề thi thử THPT QG môn Ngữ văn năm 2021-2022 Trường THPT Hoa Lư. Để xem thêm nhiều tài liệu tham khảo hữu ích khác các em chọn chức năng xem online hoặc đăng nhập vào trang Hoc247.net để tải tài liệu về máy tính.
Các em quan tâm có thể tham khảo tài liệu cùng chuyên mục:
Hy vọng tài liệu này sẽ giúp các em học sinh ôn tập tốt và đạt thành tích cao trong học tập.
Chúc các em học tập tốt !