1. Phân tích khổ 2 bài thơ Tây Tiến
Trong tác phẩm “Tây Tiến”, Quang Dũng đã thể hiện những nỗi niềm, tình cảm của mình về vùng đất Tây Bắc – nơi mà đoàn binh Tây Tiến của ông đã có rất nhiều kí ức khó phai. Giờ đây,những gian khổ như lùi ra xa nhường chỗ cho không khí tươi mới của một đêm liên hoan ấm tình quân dân ng kỉ niệm tươi đẹp với đất, với người. Ngay từ khi đọc những dòng thơ đầu của tác phẩm có lẽ người đọc đã thấy ấn tượng về thiên nhiên Tây Tiến với sự hùng vĩ, hoang sơ và có lúc thật dữ dội, nguy hiểm khiến bước chân của người lính cũng trở nên mỏi mệt, rã rời. Thế nhưng, đến khổ thơ thứ hai, những mỏi mệt, rã rời nhưng cũng chất chứa những suy tư chính ở nơi doanh trại.
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Vẻ đẹp của bài thơ có thể thấy phần nào khi phân tích khổ 2 bài Tây Tiến, trong đó không thể không tìm hiểu những ý chính về tác giả, tác phẩm.
Quang Dũng (sinh năm 1922 – mất năm 1988) là người con của thủ đô Hà Nội. Tên thật của ông là Bùi Đình Diệm và ngay từ lúc còn là một chàng trai Hà thành đầy sức trẻ, ông đã nguyện cống hiến sức mình vào sự nghiệp cứu nước. Bên cạnh vai trò là một người lính hăng hái và nhiệt thành cách mạng, Quang Dũng còn được biết đến với nhiều năng khiếu đặc biệt như viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc,…
Chính những điều này đã củng cố thêm niềm tin của mọi người về sự tài hoa của nhà thơ – chiến sĩ Quang Dũng. Trong suốt quá trình phụng sự sức mình cho đất nước cũng như đến cuối đời, nhà thơ đã ghi lại những cảm xúc, tâm tư của mình lại thành những tác phẩm mang dấu ấn riêng, đó cũng đồng thời là những đóng góp rất đáng kể của ông cho nền văn học nước nhà.
Một số tác phẩm nổi bật của Quang Dũng cần kể đến như: “Rừng biển quê hương” (năm 1957), “Đường lên Châu Thuận” (năm 1964), “Rừng về xuôi” (năm 1968), “Mây đầu ô” (năm 1986). Về sau, Quang Dũng được nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật nhờ sự thành công trong những sáng tác của mình.
Bài thơ “Tây Tiến” ban đầu có tên là “Nhớ Tây Tiến” và được in trong tập “Mây đầu ô”. Tác phẩm này được ra đời do Quang Dũng muốn ghi lại những kỉ niệm mà ông có được cùng đoàn binh Tây Tiến trong quá trình làm nhiệm vụ ở Tây Bắc. Binh đoàn của ông được thành lập vào năm 1947 và có tên là Tây Tiến, trong đó Quang Dũng là người đại đội trưởng.
Lực lượng chủ yếu của binh đoàn này là những thanh niên, học sinh của đất Hà thành và đảm nhiệm vai trò là những người sẽ bảo vệ biên giới Việt Lào trong thời kỳ miền Tây Bắc Bộ Việt Nam bị Pháp đánh chiếm cùng với vùng Thượng Lào. Khi đóng quân ở chiến địa này, đoàn binh đã phải đương đầu với rất nhiều những thử thách và trở ngại bởi nơi đây có địa hình rất hiểm trở, thiên nhiên hoang sơ và thời tiết cũng rất khắc nghiệt. Đường dốc, núi cao, vực thẳm, thú dữ, sốt rét,… là những thứ đe dọa đến sức khỏe và sinh mạng của Quang Dũng và những người đồng đội của mình tại nơi công tác…
Thế nhưng đối diện với những hiểm nguy nói trên, trong những dòng viết của Quang Dũng, người lính Tây Tiến vẫn hiên ngang, bất khuất, luôn giữ được tinh thần lạc quan, yêu đời và đặc biệt là họ đã có với nhau rất nhiều những kỉ niệm đẹp. Đến khi chuyển công tác, những kỉ niệm đó vẫn không một phút giây nào phai mờ trong tâm trí nhà thơ. Thế nên ông đã viết ra “Tây Tiến” để chính tác phẩm sẽ thay ông thổ lộ hết những niềm thương, nỗi nhớ dành cho đoàn binh một thời gắn bó của mình.
Vẻ đẹp của núi rừng trong đêm hội cùng với sự thơ mộng của một vùng sông nước hòa quyện với sự xuất hiện của em… Tất cả đã tạo nên chất thơ rất riêng mà chỉ khi phân tích khổ 2 bài Tây Tiến ta mới có thể thấy rõ.
Mở đầu khổ thơ thứ hai, nhà thơ đã vẽ ra trước mắt người đọc khung cảnh của đêm liên hoan với ánh sáng rực rỡ:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa”
Động từ “bừng lên” vốn là động từ mạnh khi kết hợp với hình ảnh “đuốc hoa” dường như đã thắp sáng cả doanh trại và còn lan tỏa ánh sáng ấy ra khắp không gian tịch mịch, u tối của núi rừng Tây Bắc. Khi phân tích khổ 2 bài Tây Tiến, ta thấy hình ảnh “đuốc hoa” trước nay vẫn thường gợi đến niềm hạnh phúc lứa đôi. Và trong bài thơ, khi Quang Dũng sử dụng hình ảnh này chắc cũng có lẽ cũng là để diễn tả niềm hạnh phúc của người lính khi được sống hòa mình trong đêm liên hoan tại doanh trại công tác.
Lúc “đuốc hoa” bừng lên là khi hơi ấm đến với người lính và những giá lạnh được xua đi, cũng là chính là lúc người lính được gần gũi, gắn bó không chỉ với đồng đội mà còn với cả nhân dân, để dù xa nhà, xa quê họ vẫn có thể sống trong tình yêu thương, sự quan tâm của tình thân, bè bạn. Khi cảm nhận và phân tích khổ 2 bài Tây Tiến, ta thấy sự thật là giữa cuộc hành quân đầy gian lao và vất vả, thậm chí tinh thần họ lúc nào cũng phải trong tâm thế sẵn sàng đối diện với những mất mát và hiểm nguy. Thế nên những đêm liên hoan diễn ra như thế này đã góp phần tạo nên chút niềm vui, giúp họ giải tỏa những căng thẳng, cho họ sự động viên để họ lại có thể tiếp tục vững bước trên hành trình gian truân ở phía trước.
Không chỉ có sự xuất hiện của ánh sáng, ở những câu thơ tiếp theo, Quang Dũng còn gợi nên không khí tưng bừng của đêm liên hoan và đặc biệt hơn là trong không khí tưng bừng ấy lại có sự xuất hiện rất duyên dáng của “em”:
“Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Góp vào sự lung linh, rực rỡ của ánh “đuốc hoa” là âm thanh hết sức sôi nổi, vui tươi của điệu khèn, tiếng nhạc. Không chỉ có vậy, hình ảnh những cô gái với xiêm áo lộng lẫy đang nhịp nhàng, “e ấp” trong những vũ điệu của miền sơn cước đã khiến cho đêm liên hoan thêm phần sống động, lôi cuốn. Phân tích khổ 2 bài Tây Tiến sẽ thấy cụm “kìa em” đứng ở vị trí đầu câu thơ gợi sự bất ngờ nhưng đầy thiện cảm của người lính khi nhìn thấy sự hiện diện của các cô gái bản làng với trang phục lộng lẫy đang hòa mình vào không khí rộn ràng, vui tươi của đêm liên hoan.
Chính sự xuất hiện của những cô gái trong khúc nhạc điệu vốn là hồn cốt của núi rừng Tây Bắc cùng với khung cảnh của đêm liên hoan đã tạo nên chất tình tứ, lãng mạn của cuộc liên hoan. Có ý kiến cho rằng câu thơ “nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ” như một lời gợi nhắc về địa điểm diễn ra đêm liên hoan ở vùng biên giới Việt – Lào vì địa bàn hoạt động của đoàn binh Tây Tiến không chỉ là ở khu vực Tây Bắc mà cờn ở địa phận ở các tỉnh Sầm Nưa, Xiêng Khoảng ở Lào.
Đó cũng là một ý kiến có căn cứ và xét thấy cho dù là cuộc liên hoan ấy diễn ra ở đâu đi chăng nữa thì điều tác giả muốn gửi gắm có lẽ vẫn là sự hòa hợp giữa con người và khung cảnh, đặc biệt là sự thân tình, trìu mến của quân và dân. Có thể thấy, từ khi “em” xuất hiện cùng với những khúc nhạc của núi rừng thì giữa khung cảnh và con người, giữa quân và dân như không còn khoảng cách nữa.
Phân tích khổ 2 bài Tây Tiến, ta thấy cả cảnh vật và con người như hòa vào nhau để cùng ngây ngất, rạo rực trong sự tưng bừng, sôi nổi của đêm liên hoan. Không khí của “hội đuốc hoa” ấy càng diễn ra tưng bừng, nhộn nhịp bao nhiêu thì tình cảm, cảm xúc của nhà thơ lại càng trào dâng mãnh liệt bấy nhiêu để rồi những cảm xúc ấy được chắp thêm đôi cánh và hóa thành những vần thơ diễn tả rất uyển chuyển và nhịp nhàng. Không đơn thuần là những con chữ, người đọc như nhìn thấy cả ánh sáng, nghe được âm thanh và cảm nhận được vẻ đẹp cuốn hút đầy sức sống của những người con gái của núi rừng.
Khi không khí của đêm liên hoan vẫn chưa hết nhộn nhịp thì trong lòng tác giả lại có cảm giác như được gọi về những kỉ niệm tươi đẹp của buổi chiều sương Châu Mộc:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Hình ảnh con người hiện hữu ở câu thơ đi kèm cùng những câu hỏi đầy tha thiết. Nhân vật trữ tình luôn băn khoăn “người đi Châu Mộc chiều sương ấy” liệu rằng “có thấy” và “có nhớ” những vẻ đẹp thật thơ mộng, nên thơ của “hồn lau”, “dáng người trên độc mộc” và cả “dòng nước lũ” có những cánh hoa đong đưa. Phân tích khổ 2 bài Tây Tiến để thấy trong làn sương chiều hôm người đi, cảnh vật như nhòe mờ, mông lung nhưng phải chăng chính vì thế mà nó trở nên có hồn hơn, ấn tượng hơn.
Những bông lau phất phơ trên bờ bến phải chăng đã tạo nên cái hồn cho bến bờ hay hồn của cảnh là sự hóa thân của chính tâm hồn nhà thơ để mỗi một ngọn lau, một cánh hoa cũng mang những nỗi niềm, tâm trạng. Chính những điều này đã biến những sự vật vốn vô tri như cũng có riêng đời sống của nó. Thêm vào đó, sự gợi nhắc về dáng người mảnh mai, duyên dáng trên chiếc thuyền độc mộc xinh xinh đã khiến cho bức tranh về cảnh và người hiện lên với sự khỏe khoắn, rắn rỏi bên cạnh cái vẻ huyền ảo, mơ màng của miền cổ tích xa xưa…
Phân tích khổ 2 bài Tây Tiến, ta thấy có lẽ, những nghi vấn về việc người đi “có thấy”, “có nhớ” giờ đây đồng thời cũng là lời khẳng định rằng những hình ảnh về cảnh vật và con người chốn này mãi mãi sẽ khắc ghi trong lòng tác giả cũng như những người lính nói chung. Chính vì “thấy” và “nhớ” rõ mồn một từng chi tiết, đường nét của cả người và cảnh nên ướm hỏi cũng thực chất là bày tỏ nỗi lòng và một khi phải rời xa chốn thân thương thì chắc hẳn trong lòng sẽ chất chứa nỗi nhớ mênh mang, sâu lắng và sức ám ảnh khôn nguôi về cảnh ấy và người ấy.
Qua khổ thơ thứ hai, người đọc cảm nhận được sự tài hoa của tác giả bởi nét bút của ông vừa sinh động, biến ảo trong những câu về đêm hội núi rừng và cũng vừa tinh tế, mềm mại ở đoạn viết về thiên nhiên. Chính sự tài hoa đó đã giúp cái đẹp thắm thiết, đậm đà của tình quân dân và vẻ đẹp thơ mộng, mơ màng của thiên nhiên hiện hữu trước mắt người đọc một cách rõ ràng đầy ấn tượng.
2. Cảm nhận của anh (chị) về vẻ đẹp trong khổ thơ thứ 2 bài Tây Tiến của Quang Dũng
Quang Dũng là nhà thơ – chiến sĩ, từng cầm súng đánh giặc và làm thơ thời kháng chiến chống Pháp. Năm 1948, tại Phù Lưu Chanh (Hà Tây cũ), ông viết bài thơ “Tây Tiến” nói lên tình thương nhớ chiến trường miền Tây, nhớ đồng đội thân yêu một thời trận mạc. Mở đầu bài thơ là một lời nhắn gọi biết bao thiết tha bồi hồi:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi với”.
Bài thơ có 34 câu thơ thất ngôn, chia thành 4 đoạn, mỗi đoạn thơ là sự hồi tưởng bao kỉ niệm sâu sắc. Đây là đoạn thơ thứ hai có 8 câu mang vẻ đẹp như một bài hành nói về 2 nỗi nhớ: nhớ hội đuốc hoa và nhớ chiều sương Châu Mộc:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
…
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.
Từ “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói – Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”, Quang Dũng nhớ đến “hội đuốc hoa” thắm thiết tình quân dân:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.
Đuốc hoa là cây nến thắp lên trong phòng tối tân hôn. “Truyện Kiều” có câu: “Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa”(3096). Quang Dũng sáng tạo thành “hội đuốc hoa” để nói về đêm liên hoan lửa trại giữa các cán bộ chiến sĩ đoàn binh Tây Tiến với đồng bào các bản mường. Chữ “bừng” vừa chỉ ánh lửa, ánh đuốc sáng bừng lên, vừa tả âm thanh tiếng nói, tiếng cười, tiếng hát, tiếng khèn vang lên tưng bừng rộn rã trong hội đuốc hoa. Đêm lửa trại, đêm liên hoan chắc là có múa sạp, có múa xòe của các cô gái Mường, cô gái Thái tham gia? Chữ “kìa” là đại từ để trỏ một đối tượng (người, vật) từ xa; trong văn cảnh thể hiện sự ngạc nhiên, niềm vui thích, tình tứ của chàng lính trẻ Tây Tiến khi nhìn thấy các “em”, các “nàng” đến dự hội đuốc hao trong bộ xiêm áo xinh đẹp. Hình ảnh “nàng e ấp” là một nét vẽ tài hoa và có hồn đã gợi tả vẻ đẹp duyên dáng, kín đáo, tình tứ của các thiếu nữ miền Tây. Ánh lửa, tiếng hát, tiếng khèn, màu xiêm áo rực rỡ, vẻ đẹp kiều diễm của các “em”, các “nàng” như đã “xây hồn thơ” các chàng lính trẻ. Con người thì trẻ chung, xinh đẹp, hào hoa, đa tình; ngòi bút của thi nhân cũng rất tài hoa, lãng mạn. Qua hội đuốc hoa, ta càng thấy đời sống tinh thần vô cùng phong phú của đoàn binh Tây Tiến nơi chiến trường miền Tây gian khổ ác liệt.
Bốn câu thơ tiếp theo dòng hồi tưởng “trôi” về một miền đất lạ, đó là Châu Mộc thuộc tỉnh Sơn La, nơi có những bãi cỏ bát ngát mênh mông, nơi có dãy núi Pha Luông cao 1880m, nơi có bản Pha Luông sầm uất của người Thái. Quang Dũng người lính chiến với tâm hồn thi sĩ đã khám phá ra bao vẻ đẹp kì thú miền Châu Mộc. Năm tháng đã trôi qua, cảnh và người miền đất lạ ấy đã trở thành một mảnh tâm hồn của bao người:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đông đưa”.
“Chiều sương ấy” là chiều thu 1947. Sương trắng phủ mờ núi rừng chiến khu chiều thu ấy in đậm hồn người; hoài niệm càng trở nên mênh mang. Chữ “ấy” câu trên bắt vần với chữ “thấy” câu dưới tạo nên một vần lưng giàu âm điệu, như một tiếng khẽ hỏi “có thấy” cất lên trong lòng. Hồn lau là hồn mùa thu. Hoa lau nở trắng cờ, lá lau kêu xào xạc trong gió thu “nẻo bến bờ”, nơi bờ sông bờ suối. Với tâm hồn thi sĩ tài hoa, Quang Dũng đã cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Châu Mộc qua cảnh sắc “chiều sương” và “hồn lau nẻo bến bờ”. Những thi liệu ấy đã tạo nên vẻ đẹp cổ điển bức tranh suối rừng nơi miền đất lạ. Thấp thoáng trong vần thơ “Tây Tiến” là những câu cổ thi tuyệt bút:
“Sương đầu núi buổi chiều như dội,
Nước lòng khe nẻo suối còn sâu…”
(Chinh phụ ngâm)
Các thi sĩ xưa nay vẫn gọi hồn thu là hồn lau:
“Ngàn lau cười trong nắng
Hồn của mùa thu về
Hồn mùa thu sắp đi
Ngàn lau xao xác trắng”.
(Lau mùa thu – Chế Lan Viên)
Điệp ngữ “có thấy” và “có nhớ” làm cho hoài niệm về chiều sương Châu Mộc thêm phần man mác, bâng khuâng. Nhớ cảnh rồi nhớ đến người. Trong chia phôi còn “có nhớ”. “Có nhớ” con thuyền độc mộc và “dáng người” chèo thuyền độc mộc? “Có nhớ” hình ảnh “hoa đong đưa”trên dòng nước lũ? “Hoa đong đưa” có phải là hoa rừng “đong đưa” làm duyên trên dòng nước lũ như giáo sư Phan Cự Đệ đã nói? Hay “Hoa đong đưa” là hình ảnh ẩn dụ gợi tả các cô gái miền Tây xinh đẹp lái thuyền độc mộc duyên dáng, uyển chuyển như những bông hoa rừng đang “đong đưa” trên sông suối. Bài hát “Sơn nữ ca” của nhạc sĩ Trần Hoàn, “Nụ cười sơn cước” của nhạc sĩ Tô Hải cho ta cảm nhận ấy. Phải có “tay lái ra hoa” mới có thể “đong đưa” được như vậy.
Những dòng hồi tưởng trên đây về cảnh sắc và con người nơi suối rừng miền Tây, nơi cao nguyên Châu Mộc đã được thể hiện một cách tuyệt đẹp qua bút pháp tài hoa và hồn thơ lãng mạn. Thuở ấy, núi rừng Tây Bắc vô cùng hoang vu, là chốn rừng thiêng liêng nước độc, nhưng Quang Dũng với tâm hồn lạc quan và yêu đời của một khách chinh phu thời đại mới đã cảm nhận và phát hiện bao vẻ đẹp thơ mộng, xinh tươi của cảnh sắc thiên nhiên và con người Tây Bắc.
Hoài niệm, kỉ niệm về chiến trường núi rừng miền Tây như được chắt lọc qua tâm hồn. Nhà thơ có gắn bó với cảnh vật và con người Tây Bắc, có vào sinh ra tử với đồng đội mới có kỉ niệm đẹp và sâu sắc như vậy, mới có thể viết nên những vần thơ sáng giá như thế.
Bức tranh chiều sương Châu Mộc và hội đuốc hoa như một bức tranh sơn mài của một danh họa mang vẻ đẹp màu sắc cổ điển và lãng mạn kết hợp hài hòa với tính thời đại và hiện đại trong máu lửa chiến tranh.
3. Bình giảng nội dung đoạn thơ thứ 2 bài Tây Tiến của Quang Dũng
Quang Dũng là nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc… nhưng thành công nhất vẫn là thơ ca. Các tập thơ tiêu biểu của Quang Dũng được bạn đọc biết đến nhiều như “Mây đầu ô”, “Mùa hoa gạo”… Nhưng tên tuổi của Quang Dũng có lẽ đã gắn liền với bài thơ Tây Tiến. Bài thơ ra đời vào năm 1948 in trong tập “Mây đầu ô” là bài thơ tiêu biểu nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp.
Bài thơ có giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc mà tiêu biểu là đoạn thơ sau đây: “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa… Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Tây Tiến là một phân hiệu bộ đội được thành lập đầu năm 1947. Thành phần chủ yếu là thanh niên trí thức Hà Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới phía Tây. Năm 1948, Tây Tiến giải thể để thành lập trung đoàn 52. Quang Dũng cũng chuyển sang đơn vị khác.
Sau khi rời đơn vị cũ chưa được bao lâu Quang Dũng đã sáng tác bài thơ này. Đoạn thơ ta bình giảng là đoạn thơ thứ hai trong bài Tây Tiến. Bốn câu đầu, nhà thơ mang đến cho người đọc không khí tươi vui của đêm liên hoan văn nghệ đậm tình quân dân.
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa.
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp.
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
“Doanh trại” là nơi đóng quân của Tây Tiến cũng là nơi diễn ra lễ hội văn hóa đậm đà tình quân dân. Đồng bào dân tộc đã tụ họp về đây để sinh hoạt và góp vui tinh thần với bộ đội Tây Tiến. Từ “bừng” gợi cảm giác ấm áp, gợi niềm vui lan tỏa. Đêm rừng núi thành đêm hội. Ngọn đuốc nứa, đuốc lau thành “đuốc hoa” (“Đuốc hoa” là hoa chúc – cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân hôn).
Ở đây, “đuốc hoa” có ý nghĩa là gợi không khí ấm cúng, gợi niềm vui, niềm hạnh phúc trong lòng các chiến sĩ. “Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười nói tưng bừng rộn rã. Tố Hữu khi nhớ về Việt Bắc cũng từng viết về đêm liên hoan:
“Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan”.
Có thể hình dung đêm hội mà Quang Dũng viết trên đây như một đám cưới tập thể. Từ “Kìa em” trong câu thơ thứ hai thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của lính Tây Tiến trước vẻ đẹp của cô gái vùng cao trong trang phục “xiêm áo” lộng lẫy cùng dáng vẻ “e ấp” rất thiếu nữ.
Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Yêu say từ vóc dáng đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ. Quang Dũng không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên trước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa.
Những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ Thái, những cô gái Lào xinh đẹp, duyên dáng “e ấp”, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ. Cũng có thể hiểu người lính đang đóng giả con gái trong những trang phục dân tộc rất độc đáo, tạo tiếng cười vui cho đêm văn nghệ. Ngỡ ngàng nữa là tiếng khèn “man điệu”.
Khèn là một loại nhạc cụ của người dân tộc miền núi Tây Bắc còn “man điệu” là một điệu nhạc “lạ” đặc trưng văn hoá của những con người nơi đây. Và hòa vào tiếng khèn ngất ngây ấy là điệu múa Lam vông quyến rũ của những cô gái Lào đã “xây hồn thơ” trong lòng các chàng lính trẻ. Chính cái lạ ấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Hà Nội hào hoa. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thăng hoa, mọi mỏi mệt như bị đẩy lùi, thêm vào đó là lòng yêu đời, yêu miền đất lạ.
Chính vì thế mọi cảm giác mỏi mệt, mọi vất vả đều tan biến. Thay vào đó là niềm lạc quan, yêu đời nâng bước họ mạnh mẽ hơn trên con đường hướng về “Viên Chăn xây hồn thơ”. Từ đó, ta có thể thấy được rằng các chiến sĩ của chúng ta dù trong những giờ phút vui vẻ, thoải mái nhất thì tâm hồn của họ vẫn luôn hướng về lí tưởng cách mạng cao đẹp. Bốn câu sau là khung cảnh chia tay trên nền sông nước Tây Bắc vừa thực vừa mộng hoang vắng, tĩnh lặng, buồn thi vị.
Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
So với bốn câu thơ trên là hình ảnh không khí đêm lễ hội tưng bừng hoà hợp với ánh sáng lung linh và tâm hồn trẻ trung, yêu đời của các chiến sĩ Tây Tiến thì bốn dòng thơ tiếp theo, Quang Dũng đưa người đọc đến với hình ảnh của con người và núi rừng Tây Bắc trong một buổi chiều sương … Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra.
Thiên nhiên Tây Bắc hiện lên theo chiều hướng nhẹ hoá. Cái dữ dội, khốc liệt được đẩy lùi đi và thay vào đó là những hình ảnh nhẹ nhàng và thơ mộng. Hình ảnh đầu tiên là hình ảnh chiều sương cho ta thấy nét đặc trưng vốn có của núi rừng nơi đây. Nhưng sương ở đây ko phải là sương lấp, sương che hay sương phủ mà là “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy”. Nó gợi màu sắc bảng lảng, sương khói vừa có nỗi buồn man mác. Đại từ “ấy” làm rõ nghĩa hơn cho từ chiều sương để nhấn mạnh rằng đây là một buổi chiều sương rất đặc biệt, chiều sương trong nỗi nhớ đã thành kỷ niệm nên tình người cũng man mác, bâng khuâng.
Đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sương khói hiện lên như một miền cổ tích. Có lẽ chất họa sĩ của Quang Dũng đã ăn vào thơ ở đoạn này. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật là tài hoa. Chỉ một vài nét chấm phá vậy mà cái hồn của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút. Sông nước hoang dại như một bờ tiền sử, bên bờ lau lách và tác giả đã cảm nhận những cánh lau qua hai từ vô cùng tinh tế, đó là ”hồn lau”… gợi cảm giác hoang vắng, tĩnh lặng, giàu chất thơ sâu lắng vừa có chút gì đó thiêng liêng phảng phất chút tâm linh rừng núi.
“Nẻo bến bờ” có nghĩa là: nẻo – lối đi. Nẻo bến bờ là nhìn đâu cũng thấy mênh mang hồn lau. “Hồn lau” – những cây lau không còn vô tri vô giác mà có linh hồn. Phải là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ ấy.
“Ngàn lau cười trong nắng
Hồn của mùa thu về
Hồn của mùa thu đi
Ngàn lau xao xác trắng”
(Chế Lan Viên)
Không gian nên thơ ấy làm nền cho người thơ xuất hiện: Giữa hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc hiện lên đầy sức sống và lãng mạn thì hình ảnh con người nơi đây hiện lên mang một vẻ đẹp khỏe khoắn, bất khuất, kiên cường: “Có nhớ dáng người trên độc mộc”.
Điệp ngữ “có thấy – có nhớ” luyến láy như chạm khắc vào lòng người một nỗi nhớ da diết, cháy bỏng khôn nguôi. Độc mộc là một loại thuyền được làm từ thân cây gỗ lớn, dài. Dáng người trên độc mộc ở đây có thể là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của những cô gái Thái, Mèo đang đưa các chiến sĩ vượt sông. Cũng có thể hiểu là dáng hình kiêu dũng của các chiến sĩ Tây Tiến đang chèo chống con thuyền vượt sông, vượt thác dữ tiến về phía trước. Tất cả những hình ảnh ấy đều đã để lại trong lòng của Quang Dũng một hình ảnh khó phai nhoà…
Thiên nhiên Tây Bắc vốn nổi tiếng với con sông Mã, một dòng sông đã chứa trong nó biết bao dữ dội. Nhưng ở đây, dòng sông Mã đã hiện lên với sự nhẹ nhàng đến kỳ lạ. Những cánh hoa rừng không bị ”dồi lên dập xuống” mà là “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Từ láy “đong đưa” được sử dụng rất gợi cảm: Cánh hoa rừng như cũng quyến luyến con người. Cánh hoa rừng như bàn tay vẫy chào người lính, tiễn người lính vượt sông đi đánh giặc. Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bên cạnh đó còn có các yếu tố nghệ thuật: Ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, hồn thơ mang đậm chất lãng mạn, hào hoa…
Những từ ngữ như “có nhớ”, “có thấy” luyến láy, khắc họa thêm nỗi nhớ: lưu luyến, bồi hồi. Tất cả đã tạo nên một bài thơ hay và giàu giá trị. Tóm lại, tám câu thơ của khổ hai đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên, con người miền Tây với vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng, trữ tình.
Chất nhạc, chất hoạ, chất mơ mộng hoà quyện chặt chẽ với nhau trong đoạn thơ tạo nên một thế giới của cái đẹp. Từng nét vẽ của Quang Dũng đều mềm mại, tinh tế, uyển chuyển. Đây là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng trong tổng thể bài thơ.
4. Cảm nhận vẻ đẹp hào hoa của người lính Tây Tiến qua đoạn 2 bài thơ Tây Tiến
Quang Dũng là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Ông là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc… Hồn thơ Quang Dũng phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa, thiết tha với quê hương, đất nước mình. Tây Tiến là một trong những thi phẩm xuất sắc nhất của đời thơ Quang Dũng. Tác phẩm là bức họa bằng ngôn từ về bức tranh thiên nhiên, cuộc sống miền Tây hùng vĩ, dữ dội mà mĩ lệ, nên thơ cùng hình ảnh lãng mạn, bi tráng về người lính Tây Tiến. Đoạn thơ thứ 2 là những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan văn nghệ; cảnh thiên nhiên, con người miền Tây trữ tình, thơ mộng. Qua đó thể hiện vẻ đẹp hào hoa của người lính Tây Tiến.
Hào hoa chỉ vẻ lịch lãm, sang trọng, phóng khoáng trong cách sống, cách cư xử,….Trong bài thơ “Tây Tiến”, vẻ đẹo hào hoa là vẻ đẹp của tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, lãng mạn, mềm mại, bay bổng, mơ mộng; khẳng định cái tôi tràn đầy tình cảm, cảm xúc. Vẻ đẹp hào hoa nâng đỡ tinh thần người lính vượt lên mọi thử thách trong máu lửa chiến tranh gian khổ để hướng đến ngày mai chiến thắng.
Vẻ đẹp hào hoa của người lính Tây Tiến được biểu hiện qua nỗi nhớ về tình quân dân với cảnh đêm liên hoan văn nghệ mang màu sắc phương xa, xứ lạ. Với nét vẽ khỏe khoắn, mê say, Quang Dũng dẫn người đọc vào một đêm liên hoan văn nghệ đầy hấp dẫn nơi xứ lạ. Đêm liên hoan trở thành đêm hội tưng bừng với hình ảnh “đuốc hoa” rực rỡ, gợi những liên tưởng thi vị, tình tứ, mang đến niềm vui rạo rực, náo nức lòng người. Cụm từ “bừng lên” như nốt nhấn tươi sáng cho cả câu thơ, đó là ấn tượng về ánh sáng chói lòa, đột ngọt của lửa, của đuốc làm ấm nóng cả núi rừng. Hình ảnh trung tâm của đêm hội là “đuốc hoa”, là những thiếu nữ miền sơn cước: Kìa em xiêm áo tự bao giờ. Sự kết hợp của từ Kìa và cụm từ nghi vấn tự bao giờ bộc lộ cảm giác vừa ngỡ ngàng, thú vị vừa ngưỡng mộ, trìu mến của người lính Tây Tiến. Người xem hội, người tham gia liên hoan ngất ngây trong tiếng khèn, trong man điệu mang đậm chết núi rừng vừa bí ẩn, quyến rũ, vừa tình tứ, e thẹn nhưng cũng mãnh liệt, tha thiết của những thiếu nữ miền Tây. Cảnh vật, con người như ngả nghiêng, ngây ngất trong những giây phút bình yên hiếm hoi của thời chiến. Dư âm của chiến tranh tàn khốc bị đẩy lùi chỉ còn những tâm hồn lãng mạn trong tiếng nhạc, hồn thơ. Đây là một kỉ niệm đẹp, khó phai mờ trong lòng những người lính Tây Tiế nói chung và trong lòng Quang Dũng nói riêng.
Vẻ đẹp hào hoa của người lính Tây Tiến được còn được biểu hiện qua kí ức khó phai về khung cảnh thiên nhiên và con người miền Tây trữ tình, thơ mộng.
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy” là người lính Tây Tiến, họ như đang dẫn người đọc đến với thiên nhiên Tây Bắc hoang sơ, lặng tờ mang một màu sắc huyền thoại. Cảnh thơ mộng, trữ tình được nhà thơ diễn tả qua các chi tiết chiều sương giăng mắc mênh mang mờ ảo, dòng sông trôi lặng tờ đậm màu sắc cổ tích, dáng người mềm mại, uyển chuyển lướt trên con thuyền độc mộc, hoa đôi bờ đong đưa theo dòng thác lũ. Cảnh không vô tri vô giác, mà trong gió trong cây, như có linh hồn của vạn vật: “Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”. Hồn lau trong thơ Quang Dũng cũng là hồn lau của li biệt, phảng phất chút buồn nhưng không xao xác, lãng quên mà đầy nhớ nhung, lưu luyến. Hình ảnh bóng dáng con người Tây Bắc hiện lên trong khung cảnh huyền ảo, mờ xa. Dáng người mềm mại, nhỏ bé nhưng lại cứng cỏi, kiên cường. Hoa trên dòng thác lũ đong đưa tình tứ như níu giữ cái nhìn say mê của những “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy”. Bóng người, bóng hoa như họa thêm vẻ đẹp cho nhau tạo ấn tượng giàu cảm xúc về cảnh và người miền Tây. Chất nhạc trong đoạn thơ ngân nga như tiếng hát cất lên từ tâm hồn ngất ngây, mê say, lãng mạn của cái tôi trữ tình giàu cảm xúc dẫn người đọc vào thế giới của cái đẹp, của cõi mơ, cõi nhạc.
Với cảm hứng lãng mạn, đoạn thơ đưa người đọc trở về với những giây phút bình yên, hiếm có của thời chiến tranh, về thế giới cổ tích với dòng sông huyền thoại… Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng ấy của thiên nhiên và con người Tây Bắc được cảm nhận qua tâm hồn tinh tế, nhạy cảm của người lính Tây Tiến.
Hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến vừa kết tinh được vẻ đẹp chung của hình tượng người lính trong những trang thơ chống Pháp: có lí tưởng cao cả, đầy ý chí và nghị lực vượt lên mọi khó khăn, vừa chứa đựng vẻ đẹp riêng trong trang thơ Quang Dũng: vẻ đẹp hào hoa. Vẻ đẹp ấy được khắc họa bằng cảm xúc lãng mạn, bay bổng cùng các thủ pháp đặc trưng của bút pháp lãng mạn. Quang Dũng đã góp phần làm phong phú diện mạo thẩm mĩ của chân dung người lính vệ quốc trong thơ ca Việt Nam thời chống Pháp. Bên cạnh hình tượng người lính xuất thân từ nông dân chất phác, bình dị, hồn hậu, là người lính của đất Hà thành mnag tâm hồn hào hoa, lãng mạn.