• Skip to main content
  • Skip to secondary menu
  • Bỏ qua primary sidebar
Cộng đồng học tập lớp 12

Cộng đồng học tập lớp 12

Trắc nghiệm bài học, bài tập, kiểm tra và đề thi cho học sinh lớp 12.

Login
  • Trắc nghiệm 12
  • ĐGNL Bách Khoa
  • Khoá học
  • ĐGNL ĐHQG HCM
  • ĐGNL ĐHQG Hà Nội

Nhận thức giá trị cốt lõi của giáo dục Việt Nam

03/08/2021 by Lớp 12 Để lại bình luận


LTS: Trong những năm trở lại đây, vấn đề triết lý giáo dục (TLGD) được nhắc tới nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng. Không ít ý kiến cho rằng, Việt Nam chưa có TLGD tường minh, nên những định hướng trong cải cách giáo dục thời gian qua chưa hiệu quả. Để cùng hiểu rõ hơn vấn đề này, phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã có những cuộc trao đổi, phỏng vấn với các chuyên gia, những thầy cô giáo, nhà quản lý giáo dục đã dành tâm huyết cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) của nước nhà để ghi nhận các ý kiến phân tích, chia sẻ với mong muốn góp phần tháo gỡ những tồn tại; làm sáng rõ giá trị cốt lõi của giáo dục Việt Nam; sáng rõ con đường, sự phát triển nền giáo dục của đất nước trong tương lai.

 

Khi nhóm phóng viên Báo Quân đội nhân dân đặt vấn đề trao đổi về TLGD, hầu hết các chuyên gia đều cho rằng: Dù không dễ xác định TLGD, nhưng việc nghiên cứu về TLGD Việt Nam không ngoài mục đích phát triển giáo dục, đồng thời đóng góp vào công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Đây là việc làm có ý nghĩa vô cùng quan trọng và cấp thiết.

GS, Viện sĩ, NGND Phạm Minh Hạc, nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục (nay là Bộ GD&ĐT); GS, TS Phạm Tất Dong, Phó chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam; TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến, nguyên trợ lý Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã có những chia sẻ sâu sắc, với vốn kiến thức tích cóp cả đời làm giáo dục.

Phóng viên (PV): Từng là Bộ trưởng Bộ Giáo dục, đồng thời từng thực hiện đề tài nghiên cứu cấp bộ: “Triết lý giáo dục Việt Nam”, ông đánh giá như thế nào về vai trò của TLGD đối với sự phát triển của giáo dục đất nước?

GS, Viện sĩ Phạm Minh Hạc: Trước hết, phải khẳng định TLGD là vấn đề lớn của xã hội nói chung và ngành giáo dục nói riêng. TLGD có ý nghĩa quan trọng để phát triển sự nghiệp giáo dục. Lâu nay ở nước ta không dùng thuật ngữ TLGD, nhưng điều đó không có nghĩa chúng ta chưa có TLGD. Bởi nếu không có TLGD, làm sao chúng ta có được thành quả như bây giờ.

Tôi không bao giờ quên lời dạy của Bác Hồ: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Bác không dùng thuật ngữ TLGD mà đưa ra đường lối phát triển giáo dục là các khẩu hiệu. Trải qua thời gian, chúng ta luôn có những khẩu hiệu-là quan điểm chỉ đạo sự phát triển giáo dục Việt Nam.

Từ năm 1945 đến nay, mỗi giai đoạn lại có những định hướng cụ thể khác nhau bằng những quan điểm chỉ đạo giản dị, dễ nhớ như: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”; “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”; hay “dạy tốt, học tốt”… Những khẩu hiệu này cũng được coi là TLGD bởi đã đưa Việt Nam từ 5% người dân biết chữ trước Cách mạng tháng Tám, lên hơn 97% người dân trong độ tuổi 15 đến 50 biết chữ ở thời điểm hiện nay. Điều đó không ai phủ nhận.

Khi làm bộ trưởng, tôi rất quan tâm tới vấn đề này. Năm 2011, tôi nhận nhiệm vụ thực hiện chương trình cấp bộ: “Triết lý giáo dục Việt Nam”; đồng thời cho xuất bản cuốn sách “Triết lý giáo dục: Thế giới và Việt Nam”. Đây là ấp ủ của tôi trong suốt 30 năm và chỉ hoàn thiện trong 6 tháng.

PV: Vậy trong quá trình nghiên cứu, ông xác định TLGD là gì?

GS, Viện sĩ Phạm Minh Hạc: Trong công trình nghiên cứu, tôi đã đề xuất TLGD: “Giá trị bản thân”, tức là mỗi người hãy hình thành, phát triển và phát huy tâm lực, trí lực, thể lực của mình, cho mình, cho gia đình và xã hội. TLGD này đang đi vào cuộc sống.

Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã thông qua Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Theo quan điểm của tôi, nghị quyết không dùng thuật ngữ TLGD nhưng đã đề ra đường lối phát triển giáo dục Việt Nam, nói vắn tắt là “năng lực và phẩm chất”. Tức là, giáo dục không chỉ dạy kiến thức để học sinh có năng lực làm việc cho bản thân, gia đình, xã hội, góp phần đưa đất nước phát triển, mà còn tạo ra những phẩm chất tương ứng cho từng con người trong thời đại mới.

 

PV: Mặc dù đến thời điểm này, chúng ta không sử dụng thuật ngữ TLGD, song triết lý này luôn tồn tại song hành trong quá trình phát triển của nền giáo dục nước nhà. Trong bối cảnh khái niệm TLGD đang có sự quan tâm đặc biệt của xã hội như hiện nay, theo ông, việc xây dựng TLGD cần dựa trên cơ sở nào?

TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến: Trước hết, cần lưu ý rằng TLGD là thuật ngữ của Việt Nam, đi liền với thuật ngữ triết học giáo dục, nhưng có sự khác biệt về nội hàm và sắc thái. Cả triết học giáo dục và TLGD đều đề cập đến những vấn đề cơ bản xoay quanh các câu hỏi dạy cái gì? dạy ai? dạy để làm gì? dạy như thế nào? Sự khác nhau là ở chỗ, triết học giáo dục tìm cách trả lời các câu hỏi trên bằng cách thiết lập các tư tưởng, khái niệm, quan điểm trong một hệ thống lý luận ít nhiều nhất quán. Trong khi đó, TLGD đặt niềm tin vào các câu trả lời đó dựa vào một trường phái triết học giáo dục cụ thể, hoặc vay mượn từ nhiều trường phái triết học giáo dục khác nhau.

Nói như thế để thấy cơ sở đầu tiên và quan trọng nhất của TLGD là triết học giáo dục. Tuy nhiên, trên thực tế, mối quan hệ này phức tạp hơn nhiều. Đó là vì các tư tưởng triết học trong triết học giáo dục còn khởi nguồn cho sự phát triển của các lý thuyết giáo dục-được xây dựng thông qua các nghiên cứu khoa học về giáo dục. Vậy nên, TLGD cũng còn được xây dựng trên cơ sở các lý thuyết giáo dục để tăng độ tin cậy trong các phát biểu của mình.

Nhìn chung là vậy, còn đặt trong bối cảnh kinh tế-xã hội cụ thể của từng quốc gia thì hiển nhiên sự phát biểu về TLGD phải là sự vận dụng của triết học giáo dục và lý thuyết giáo dục một cách phù hợp. Ở Việt Nam, TLGD được xây dựng trên cơ sở các lý thuyết giáo dục trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để phát biểu thành các quy định về mục tiêu giáo dục, nguyên lý giáo dục và định hướng phát triển giáo dục trong Luật Giáo dục.

PV: Bàn về TLGD, nhiều ý kiến cho rằng, TLGD chính là mục tiêu giáo dục của mỗi thời kỳ. Quan điểm của ông về vấn đề này ra sao?

GS, TS Phạm Tất Dong: Tôi cho đó là sự hiểu nhầm. Một trong những nguyên nhân của hiểu nhầm này là chúng ta không tìm hiểu khái niệm trước, không nhất trí với nhau về những nét cơ bản trong định nghĩa khái niệm và không khởi đi từ những nền tảng chung đó. Tôi đồng tình với quan điểm của TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến. Nằm trong ý nghĩa của triết học, triết lý được hiểu là niềm tin, triết lý phải được thừa nhận bởi đông đảo người dân, gắn kết với sự nghiệp lớn và lâu dài của dân tộc, trong một phạm vi rộng. Triết lý phải được lựa chọn làm sao trở thành ý thức chung để ta thực hiện.

Tôi cho rằng, đầu tiên, có một triết lý mà muôn đời đều phải dùng, đó là triết lý “học để làm người”. Trước khi làm bất cứ việc gì, nhà trường phải đào tạo cho người học trở thành con người tử tế cái đã. Muốn làm một công dân, trước hết phải làm một con người có nhân cách. Muốn làm một chiến sĩ, một cán bộ thì trước tiên cũng phải làm một con người tử tế. Vì vậy, học làm người bao giờ cũng còn nguyên giá trị chứ không phải là lạc hậu, cổ lỗ. Năm 1996, UNESCO đã đưa ra TLGD với 4 trụ cột: Học để biết, học để làm, học cách sống cùng nhau và học để làm người.

Thứ hai, có rất nhiều hoạt động khác nhau, sự nghiệp khác nhau và mỗi sự nghiệp đều có một triết lý để thực hiện. Cho nên ta không thể gom lại được, ngay cả trong giáo dục cũng không thể có một triết lý duy nhất. Chúng ta thuyết phục nhau nên theo triết lý này hay triết lý kia là cực kỳ khó. Do vậy, cuộc tranh luận về triết lý sẽ không có hồi kết nếu như người này muốn áp đặt quan điểm của mình lên người không đồng tình. Vấn đề hiện nay là phải làm thế nào để người dân tin và đồng tình rằng: Cần phải đi theo hướng đó.

PV: Trân trọng cảm ơn các chuyên gia!

 







del

Thông tin tác giả

Chỉ đạo thực hiện: Đại tá NGÔ ANH THU, Phó tổng biên tập

Tổ chức thực hiện: NGUYỄN XUÂN HOÀ

Nội dung: NGUYỄN HOÀI – THU HÀ – MINH NHÃ

Ảnh: NGUYỄN HOÀI – THU HÀ – MINH NHÃ

Kỹ thuật, đồ họa: KHÁNH HÀ 

 


==============

Bài gốc

Thuộc chủ đề:Tin Giáo dục Tag với:Tin tức giáo dục

Reader Interactions

Trả lời Hủy

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Sidebar chính

Bài viết mới

  • Đọc văn bản sau đây và trả lời câu hỏi:Tôi có đọc bài phỏng vấn Ngô Thị Giáng Uyên, tác giả cuốn sách được nhiều bạn trẻ yêu thích “Ngón tay mình còn thơm mùi oải hương”. Trong đó cô kể rằng khi đi xin việc ởcông ti Unilever, có người hỏi nếu tuyển vào không làm marketing mà làm sales thì có đồng ý không. Uyên nói có. Nhà tuyển dụng rất ngạc nhiên bởi hầu hết những người được hỏi câu này đều trả lời không. “Tại sao phỏng vấn marketing mà lại làm sales?”. Uyên trả lời: “Tại vì tôi biết, nếu làm sales một thời gian thì bộ phận marketing sẽ muốn đưa tôi qua đó, nhưng đã quá muộn vì sales không đồng ý cho tôi đi.”Chi tiết này khiến tôi nhớ đến câu chuyện về diễn viên Trần Hiểu Húc. Khi đó cô đến xin thử vai Lâm Đại Ngọc, đạo diễn Vương Phù Lâm đã đề nghị cô đóng vai khác. Hiểu Húc lắc đầu “Tôi chính là Lâm Đại Ngọc, nếu ông để tôi đóng vai khác, khán giả sẽ nói rằng Lâm Đại Ngọc đang đóng vai một người khác.” Đâu là điều giống nhau giữa họ? Đó chính là sự tự tin. Và tôi cho rằng, họ thành công là vì họ tự tin.Có thể bạn sẽ nói: “Họ tự tin là điều dễ hiểu. Vì họ tài năng, thông minh, xinh đẹp. Còn tôi, tôi đâu có gì để mà tự tin”. Tôi không cho là vậy. Lòng tự tin thực sự không bắt đầu từ gia thế, tài năng, dung mạo … mà nó bắt đầu từ bên trong bạn, từ sự hiểu mình. Biết mình có nghĩa là biết điều này: Dù bạn là ai thì bạn cũng luôn có trong mình những giá trị nhất định.(Theo Phạm Lữ Ân – Nếu biết trăm năm là hữu hạn, NXB Hội Nhà văn, 2012)Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên? – ĐGNL-HN
  • Đọc đoạn trích sau đây và trả lời câu hỏi:“…Tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập của các dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giúp giải phóng các dân tộc bị thống trị. Nếu người An Nam hãnh diện giữ gìn tiếng nói của mình và ra sức làm cho tiếng nói ấy phong phú hơn để có khả năng phổ biến tại An Nam các học thuyết đạo đức và khoa học của Châu Âu, việc giải phóng các dân tộc An Nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Bất cứ người An Nam nào vứt bỏ tiếng nói của mình, thì cũng đương nhiên khước từ hi vọng giải phóng giống nồi. […] Vì thế, đối với người An Nam chúng ta, chối từ tiếng mẹ đẻ đồng nghĩa với chối sự tự do của mình…”(Nguyễn An Ninh, Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức, Theo SGK Ngữ Văn 11, tập hai, NXB Giáo dục, 2014, tr.90)Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích? – ĐGNL-HN
  • Đọc đoạn trích sau đây và trả lời câu hỏi:Nếu chọn loài cây Việt tiêu biểu nhất, đó hẳn phải là cây tre.Nếu chọn loài hoa Việt tiêu biểu nhất, đó hẳn là hoa sen.Nếu chọn trang phục Việt tiêu biểu nhất, đó hẳn là chiếc áo dài.Nếu chọn nhạc khí Việt tiêu biểu nhất, đó hẳn là cây đàn bầu…Cũng như thế, nếu chọn trong nền thơ ca phong phú của ta một thể thơ làm đại diện dự cuộc giao lưu thơ toàn cầu, hẳn đó phải là Lục bát.Nếu tâm hồn một dân tộc thường gửi trọn vào thi ca của dân tộc mình, thì lục bát là thể thơ mà phần hồn của dân Việt đã nương náu ở đó nhiều nhất, sâu nhất. Có thể nói, người Việt sống trong bầu thi quyển lục bát. Dân ta nói vần nói vè chủ yếu bằng lục bát. Dân ta đối đáp giao duyên, than thân trách phận, tranh đấu tuyên truyền chủ yếu bằng lục bát. Và dân ta hát ru các thế hệ, truyền nguồn sữa tinh thần của giống nòi cho lớp lớp cháu con cũng chủ yếu bằng lục bát… Lục bát là phương tiện phổ dụng để người Việt giải toả tâm sự, kí thác tâm trạng, thăng hoa tâm hồn. Gắn với tiếng Việt, gắn với hồn Việt, thơ lục bát đã thuộc về bản sắc dân tộc này.Trong thời buổi hội nhập, toàn cầu hoá hiện nay, dường như đang có hai thái độ trái ngược đối với lục bát. Lắm kẻ thờ ơ, hoài nghi khả năng của lục bát. Họ thành kiến rằng lục bát là thể thơ quá gò bó về vần luật, về thanh luật, về tiết tấu; nó đơn điệu, nó bằngphẳng, quê mùa (…) Nhiều người đã nhận thấy ở lục bát những ưu thế không thể thơ nào có được. Họ đã tìm về lục bát (…) Đọc thơ lục bát thế kỉ qua, có thể thấy rõ rệt, càng về sau, dáng điệu lục bát càng trẻ trung, hơi thở lục bát càng hiện đại hơn so với hồi đầu. Điều đó là bằng chứng khẳng định lục bát vẫn trường tồn, lục bát vẫn gắn bó máu thịtvới tâm hồn Việt trên con đường hiện đại. Chừng nào tre còn xanh, sen còn ngát, chừng nào tà áo dài còn tha thướt, tiếng đàn bầu còn ngân nga, chừng ấy những điệu lục bát vẫn tiếp tục sinh sôi trên xứ sở này.Chu Văn SơnXác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên? – ĐGNL-HN
  • PHẦN ĐỌC HIỂU Đọc bài thơ sau đây và trả lời câu hỏi:Ta xin đón các con về nướcTuy có nghèo nhưng không thiếu bữa cơmCũng chẳng phải đâu một đế quốc siêu cường Nhưng ta biết yêu con và bảo vệ.Tình thương của ta chính là công lýĐạo tồn vong chính là sự yêu thươngChẳng may có khi con lỡ lạc bước đườngThì Tổ quốc không bao giờ chối bỏ.Những ngày này là những ngày gian khóCon lầm than nơi Vũ Hán hoang tànNhững cánh quạ đen nghi ngút trăm ngànBao chết chóc dâng thành tử khí.Ta trăn trở không cần suy nghĩCứu các con về là bổn phận của taLà tình nghĩa được truyền trao từ thuở ông cha"Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ"Đoàn phi hành gia từ đất nước mình – bé nhỏBay lên bầu trời để đón các con quaGiọt nước mắt rơi như vạn giọt lệ hoaSung sướng nhất là trở về đất mẹ.Dù cho các con đôi khi không được khỏeCũng có thể mang mầm bệnh trong ngườiNhưng cả nước mình hạnh phúc con ơiTình dân tộc lớn hơn lòng sợ hãi.Ta sẽ giữ các con ở lạiTrong những nơi trên tổ quốc an toànBao nhiêu đứa con của ta – là lính tráng đều ngoanNhường chỗ cho các con rồi vào rừng ngủ tạm.Lo trưa tối rồi lo bữa sángLúc nguy nan có dân tộc đây rồiBệnh tật chẳng là gì đâu các con ơiChúng ta cứ yêu thương là qua hết…Con có còn yêu nước Việt?Hương MaiXác định phương thức biểu đạt chính của bài thơ trên? – ĐGNL-HN
  • Đọc văn bản sau đây và trả lời câu hỏi:Xin cho lá mùa xuân xanh trên rừng hoạn nạnXin cho những bàn chân hãy nối trên tật nguyềnXin cho mặt đường lặng lẽ đêm đêmXin cho bầu trời rộn tiếng chim muôngVà còn bao cánh đồng đang chờ lúa mới lên thơmXin thêm những bàn tay dưới đôi vai nhiều ngườiXin chút nắng về soi trên mắt không còn ngàyXin vui cùng màu gạch ngói tươiQuê hương hẹn hò chuyện cất xâyVà xin những sớm mai đàn em thơ đứng cười tương lai một ngày thật mớiXin ôi những mùa xuân xanh cho lòng tuyệt vọngXin cây trái mọc ngon cho kiếp dân nhục nhằnXin cho trường học mở lớp đêm đêmXin cho ngục tù thành những công viênVà xin cho đứng gần một đời sống không mang thù hậnXin chim én mùa xuân hãy hát chung một lờiCho xương máu Việt Nam có phút giây phục hồiTrên đất ngậm ngùi thành những nương khoaiTrâu ra ruộng đồng cày luống tương laiÐường làng xưa có người những chiều gồng gánh yên vuiXin cho những dòng sông cá nhấp nhô đầy thuyềnCho những chuyến đò ngang những sớm mai rộn ràngQuê hương đền bù từng vết thươngÐôi tay cuộc tình vòng ấm êmTừ trong những xóm thôn bà mẹ quê đứng nhìn đêm đêm nhà nhà đèn sángXin cho mắt nhìn quen những đóa sen nụ hồngXin cho những buồng tim máu đã qua bình thườngXin cho học lại từng tiếng yêu thươngXin cho mọi người nhìn mắt anh emVà xin thêm những ngày tìm hạnh phúc mai đây làm người.Xuân nguyện – Trịnh Công SơnXác định các phương thức biểu đạt của đoạn văn bản trên? – ĐGNL-HN

Chuyên mục

Trắc nghiệm online Lớp 12 - Bài học - Ôn thi THPT 2023.
Bản quyền - Chính sách bảo mật - Giới thiệu - Liên hệ - Sitemap.
MÔN TOÁN - Học Trắc nghiệm - Sách toán - QAzdo - Giai Bai tap SGK - Giao vien Viet Nam

Login

Mất mật khẩu>
Đăng ký
Bạn không có tài khoản à? Xin đăng ký một cái.
Đăng ký tài khoản